Tổng Hợp

Stt tháng 4, status chào tháng tư mùa hoa loa kèn khoe sắc đua nở

Bạn đang xem: Stt tháng 4, status chào tháng tư mùa hoa loa kèn khoe sắc đua nở Tại Website vuongquocdongu.com
Chim Việt Cành
Nam            
[ Trở Về  ]          
[Trang chủ ]

Mùa
hoa loa kèn

 Nguyễn
Hoàng Huy

Tháng tư, tháng
tôi sinh, mùa hoa loa kèn nở. Loài hoa khi nở cánh có màu trắng
trong thật lạ, nhưng lúc chúng còn đương nụ, những nụ
hoa phớt xanh nằm trong đám lá bồng bềnh như những cái đầu
của một đàn khủng long thời tiền sử đang bơi lội. Nhìn
gần hơn, những nụ hoa loa kèn nhòn nhọn trông

rất giống trái đạn B.41 thu nhỏ,
có màu xanh phớt, lúc nở hoa lại giống một quả chuông,
chúng cứ nhằm thẳng vào, xoáy vào, để làm rung lên trái
tim đa cảm của anh.

Một ngày tháng tư, cha tôi đi phố
về, nói với mẹ tôi “Anh Liên mất rồi đấy !”. Tôi đi dự
đám tang nhìn thấy xung quanh linh cữu người quá cố xếp
kín những vòng hoa kết toàn bằng hoa loa kèn trắng, chắc
là hoa theo mùa, bởi vào tháng tư hoa loa kèn chỉ rộ khoảng
hai, ba tuần lễ rồi thôi.

Bác Liên là người bạn thân suốt
đời của cha tôi dù bác hơn cha tôi vài ba tuổi. Tôi nhớ
dáng vẻ ngoài của bác : tầm vóc nhỏ nhắn, tóc chải mượt,
lúc nào cũng ăn vận quần áo chững chạc. Giọng nói bác
trong, giống như giọng thầy giảng lễ trong các nhà thờ Thiên
chúa giáo. Hơn ba mươi năm trước, còn

là một cậu bé, tôi được thấy
bác lần đầu. Hôm đó sau nhiều năm xa cách cha tôi ngẫu
nhiên gặp bác ở ngoài phố, vồn vã mời về nhà. Tôi đứng
dậy cúi chào khách, trong lòng thoáng một chút ngạc nhiên
: thời bấy giờ ra ngoài đường ít người mặc quần áo
tây cả bộ, đi giày da, lại thắt cravát gọn ghẽ bên trong
chiếc cổ áo sơ mi hồ cứng, nhất là người đó lại là
cán bộ ở vùng kháng chiến mới trở về. Tôi ngồi học
bài bên cửa sổ, quay lưng lại bộ sa lông. Câu chuyện của
cha tôi với người khách cứ câu được câu chăng lọt vào
tai để đến bây giờ những câu nói đó thức dậy trong trí
nhớ tôi :

… Tiếng khách hỏi thăm cha tôi
:

– Cậu vẫn làm ở tòa án đấy
chứ ?

Cha tôi đáp :

– Vâng, thẩm phán lưu dụng anh ạ.
Còn anh, tôi nghe nói anh đi kháng chiến, vào bộ đội đóng
đến thiếu tá rồi phải không ?

– Quân đội bấy giờ chưa phong
hàm, chưa có lon. Tôi chuyển sang bộ đội với hàm thiếu
tá để vào phái đoàn đi họp liên hiệp với tụi nhà binh
Pháp trước Genève. Giờ tôi chuyển “về vườn” rồi cậu
ạ ! Tôi ốm yếu quá.

Từ buổi ấy thỉnh thoảng bác
Liên lại tới nhà tôi chơi.

Có một lần mẹ tôi bảo cha tôi
: “Anh Liên thật gàn bát sách, đến bây giờ vẫn chưa chịu
lấy vợ. Cô Lệ Lý đã lên chức “bà” rồi còn đợi chờ
gì nữa ! Đi bộ đội đóng chức to như thế đến lúc về
lại không đòi hỏi lấy một xu hưu trí hỏi anh ấy sống
thế nào ?”.

Qua câu chuyện của song thân tôi
được biết bác Liên là con nhà giàu sang, trước cách mạng
bác học trường “lít xê” rồi trường luật, nổi tiếng ăn
chơi công tử : một ngày thay ba bộ áo sơ mi, giày có vài
chục đôi, khăn mùi xoa dùng xong là bỏ. Lúc bác Liên xin nghỉ,
Nhà nước chưa ra chế độ hưu trí,

sau này có chính sách bác cũng không
đòi hỏi. Bác Liên có một người chị gái cũng không chồng
con gì. Hai bác sống ở hai buồng trên gác trong một căn nhà
hương hỏa gần phố nhà tôi. Tầng dưới có một hộ dân
thuê. Khoản thu nhập chính thức của bác Liên và người chị
gái là cuốn sổ trích lợi tức tiền nhà

cho thuê được trả mười lăm
đồng một tháng.

– Vậy thì anh ấy ăn bằng gì ?

Mẹ tôi nhắc lại.

– Anh ấy gần như ăn chay : rau với
muối vừng – cha tôi đáp. Hai chị em anh ấy có quyển sổ
gạo hai suất mười ba cân rưỡi. Bà chị bán bớt tem gạo
đi đủ tiền mua gạo, mua rau ăn. Với số tiền nhà mười
lăm đồng kia ông ấy vẫn sống phong lưu lắm : vẫn hút thuốc
lá cuốn Lạng sơn, uống chè Hồng Đào ướp hoa sen, vẫn
đọc sách. Vẫn đi chơi… thú lắm.

Trong nhà tôi con cái không được
phép góp chuyện cùng bậc cha mẹ. Khi ấy tôi cũng hơi lớn,
bắt đầu có cảm nhận riêng. Thực ra tôi không thích bác
Liên lắm nhưng không dám nói ra : người gì cứ hay đến chơi
ngồi nói chuyện rì rầm hàng buổi. Xung quanh hàng xóm tai
vách mạch rừng người ta không

biết cho là tụ tập bất mãn thì
ảnh hưởng lắm.

Tôi để ý nghe chuyện, hóa ra các
cụ toàn nói chuyện tào lao, xen cả tiếng Pháp, tiếng Tàu,
cả Phật, cả thiền, Lão, Trang, Khổng Tử rồi cả mác xít
nữa. Có một việc cho đến bây giờ tôi vẫn ân hận : tối
hôm ấy gần bảy giờ bác Liên và cha tôi còn ngồi đàm đạo.
Mẹ tôi ngồi may, thỉnh thoảng lại ngước nhìn đồng hồ.
Tôi thổi cơm, sửa soạn mâm bát xong xuôi đã lâu, sốt ruột
muốn ăn cơm nhanh để đi chơi. Nhà tôi có cái bàn ăn dài
kê cạnh bộ sa lông tiếp khách. Nghĩ ra một cách, không hỏi
ý kiến ai tôi chủ động bê mâm bát, nồi niêu ra dọn loảng
xoảng trên bàn ăn. Đang trò chuyện, bác Liên ngước nhìn
mâm cơm tôi dọn, sực nhớ giờ đã muộn. Cha tôi lúng túng
nói mấy câu mời cơm bác nhưng bác xin phép ra về. Khi khách
về rồi cha tôi gọi tôi lại, không nói không rằng giáng
cho tôi một cái tát. Từ khi học lên cấp ba tôi không hay
bị đòn nữa. Lần ấy là lần cuối cùng cha tôi đánh tôi,
nhưng cái đau lần ấy còn mãi trong đời tôi.

Có một khoảng thời gian dài dễ
đến hơn mười năm tôi không gặp bác Liên. Tôi lớn đi làm
xa nhà, rồi lấy vợ, có con bận bịu muôn chuyện đời thường.
Mãi đến khi cạy cục xin chuyển được về Hà Nội thì lại
bập vào thời kỳ kinh tế thị trường, lao vào cuộc mưu
sinh tất bật.

Tôi không ngờ khi nghe cha tôi báo
tin bác Liên đi tu. Mẹ tôi bảo “thì anh ấy sống cũng gần
như đi tu còn gì : ăn chay, không vợ, chỉ chưa xuống tóc,
niệm Phật mà thôi”.

Thực ra bác Liên nghiên cứu Phật
pháp đã lâu. Bác đi tu chỉ là tu tại gia, có lập bàn thờ
Phật, đọc kinh, đọc sách và thỉnh thoảng ăn chay. Như hồi
còn nhỏ, tôi lại được hóng nghe câu chuyện đạo lý giữa
bác và cha tôi trong lúc tôi lúi húi vẽ vời mạch điện hay
chữa cái quạt được bác Liên mời một điếu thuốc lá
cuốn Lạng sơn với câu khen “anh này được” và nếu thích
thì tôi ngồi ghé một bên ghế nghe chuyện. Câu chuyện thường
xoay quanh nỗi thống khổ của nhân gian. Có lần cha tôi hỏi
:

– Đức Phật có từ hai ngàn năm
trăm năm nay, hỏi ngài đã cứu được ai ra khỏi cảnh khổ
chưa ?

Bác Liên có giọng nói trong, nhẹ,
hơi du dương nhưng vì là con nhà luật nên bác cũng khá hùng
biện. Bác đáp ngay :

– Người ta có nhiều hạng, cảnh
khổ có nhiều mức. Thuở xưa Đức Phật thương từ con giun
bị cắt đứt dưới lưỡi cày, con chim bị mèo ăn, con nai
bị hổ vồ. Tôi với cậu đều học khoa học : tôi có “phi
lô” cậu có “mát” (1)  ta hiểu loài vật phải đau, phải
chết để cân bằng sinh thái. Còn loài người, cái loài duy
nhất có tinh thần ấy, để cân bằng xã hội người ta rất
khổ. Có nhiều loại khổ. Phật giác ngộ được chúng sinh
ra khỏi cảnh khổ vì Phật nhìn thấy cái sức mạnh tâm thức
tiềm ẩn ở loài người…

Cứ sau ngày rằm, mùng một, bác
Liên lại mang đến nhà tôi cho khi thì quả dưa, khi thì cái
oản xôi đóng lấy, gọi là lộc Phật. Bàn thờ nhà bác :
hoa hái ở trong các chậu bác trồng trên mảnh sân thượng,
quả mua ngoài chợ. Sau này đồ lễ có rôm rả hơn bởi mấy
bà cụ trong phố thấy bàn thờ nhà bác thanh

tịnh hay đến lễ cho gần. Đặc
biệt có một bà sang trọng lắm, đi xe con, mỗi năm cứ vào
tháng tư dương lịch lại đến cùng đứa cháu nội đưa lễ
một bó hoa loa kèn to.

Có đôi lần tôi được gặp bà.
Phải công nhận bà đẹp dù đã ở tuổi ngoài năm mươi.
Trông bà không có dáng của một tín đồ đạo Phật chút
nào, mỗi lần đến nhà bác Liên, bà dắt đứa cháu đi nhanh
qua cửa như không muốn để ai chú ý. Thông thường hai bà
cháu chỉ lưu lại nghe kinh khoảng ba mươi phút rồi về.

Sầm uất được vài năm, các phật
tử cúng lễ ở bàn thờ nhà bác Liên rút lui dần. Thì ra
có một biến chuyển quan trọng trong “đạo” của bác. Bác
Liên kể lại với cha tôi rằng trong giấc ngủ bác mơ thấy
Đức Phật. Không phải Đức Thích Ca Mâu Ni, cũng không phải
Phật Bà Quan Âm hay Di Lạc, Kim Cương gì. Hình dáng Đức Phật
trong giấc mơ giống hệt một hình người sắp xếp ngẫu
nhiên trên bức tường loang lổ vôi vữa rêu phong ở góc sân
thượng nơi bác hay ngồi đọc sách và suy ngẫm. Sẵn khả
năng hội họa, bác chụp ảnh bức tường rồi vẽ lại, rồi
lấy một hòn đá đục đục đẽo đẽo lấy thành pho tượng
Phật. Pho tượng này bác thay vào ngôi tam thế trên bàn thờ.
Xung quanh tường bác treo khung kính tranh các Đức Phật riêng
của bác. Tôi cũng đã được nhìn thấy pho tượng ấy. Thú
thực cũng khá đẹp mặc dù không ra hình thù gì. Bác Liên
nói rằng “Phật ở trong tâm mình, hình hài chỉ là cái vỏ
để làm đối tượng cho tín ngưỡng”. Cha tôi lại hỏi :

Xem thêm :  3 cách trang điểm nhẹ nhàng đi làm hàng ngày nơi công sở

-Như vậy anh đã từ bỏ đạo của
Đức Thích Ca Mâu Ni. Tại sao anh còn tụng kinh Phật ?

Một nét sáng tươi ngời trên gương
mặt bác :

– Tôi tụng kinh cho toàn thể nhân
dân. Hàng ngày tôi còn cầu nguyện riêng cho cậu nữa. Chúng
sinh ai cũng có thể thành Phật, đấy là ý niệm của Thích
Ca. Trong cõi thế, mỗi người đều có thể tìm thấy hình
ảnh Đức Phật riêng của mình để hướng tới. Đối với
tôi, từng chữ Phạn trong kinh sách không có

ý nghĩa nhưng lúc ngồi tụng kinh,
chúng giống như những cọc tiêu hướng dẫn trên con đường
thiên lý, tôi cứ nương vào đó để chuyển động tinh thần
tôi. Bây giờ, tôi có Đức Phật riêng của tôi rồi, tôi
ngồi thiền định nhìn sự vật đã thấy trong ra, trong suốt
từ ngoài vũ trụ đến cõi lòng tôi, cậu ạ.

Mấy năm cuối đời bác Liên yếu
hơn, cha tôi phải đến thăm bác. Rằm, mùng một nhà tôi vẫn
có lộc oản do cha tôi mang về, nhưng lại oản cơm bác đóng
lấy bằng cơm tẻ thổi nát. Hồi đầu năm người chị gái
bác qua đời. “Tín đồ” chỉ còn một bà cụ ở thuê tầng
dưới kiêm việc mua hộ gạo, dầu cho bác. Còn bà sang trọng
phải đến tháng tư mới tới.

Một lần, khi đặt cái oản cơm
của bác Liên lên bàn thờ ở nhà mình, mẹ tôi chợt nghĩ
ra :

– Ông Liên tiêu bằng gì ? Bây giờ
không còn sổ gạo, bìa, tem phiếu, lấy gì mà bán ? Tiền
lợi tức nhà cho thuê mười lăm đồng một tháng nhân lên
được nghìn rưỡi, chưa đủ mua bát phở – Bà nói với cha
tôi – ông xem có cách nào kheo khéo giúp anh Liên khéo anh ấy
không có gì ăn ?

Cha tôi ngẫm nghĩ một lát :

– Để rồi tôi liệu xem. Tính anh
ấy khái lắm, không muốn phiền ai bao giờ.

Cha tôi dẫn thêm dẫn chứng. Bác
Liên có người cháu họ xuất dương vẫn gửi thư về yêu
cầu được giúp bác, nhưng chỉ có một lần bác bảo gửi
cho bác ba cuốn sách khảo cứu Phật giáo in ở Mỹ, giá bìa
mỗi cuốn ba trăm đô la. Trong nhà bác Liên có nhiều đồ
quý : sập gụ, sa lông tàu, lọ cổ, bát giang tây…

đặc biệt bác có một bức tranh
Phật Bà Quan Âm bằng ngọc từ đời Thanh. Từ khi thay tranh
Phật, bác hạ bức Phật Bà Quan Âm xuống, dân đồ cổ Hà
Nội xô đến hỏi mua nhưng bác không bán thứ nào.

Trước tết âm lịch mấy ngày,
cha tôi đèo đến cho bác Liên một yến gạo nếp ngon. Khi
về ông kể “Anh ấy gầy lắm, nhưng vẫn nhanh nhẹn, phần
lớn thời gian là ngồi thiền. Hôm nay tôi ngồi với anh ấy
rất lâu tự dưng anh ấy bảo :

– Tôi tu đã thành chính quả rồi.
Tôi đi lúc nào thì đi không báo trước được đâu. Chỉ
với riêng cậu tôi báo tin. Sang năm, Đức Phật Di Lạc về.
Thế giới bước vào thời kỳ thịnh vượng, an lạc, nhân
gian thảy đều sung sướng.

Quý một gần hết, tháng tư sắp
sang. Tôi đang cố gắng nhặt nhạnh tiền nong hoàn thiện một
cái “toalet” tạm gọi là đời mới cho cha mẹ tôi dùng. Nhà
tôi ở trung tâm Hà Nội nhưng tiện nghi cổ lỗ. Trời lạnh,
các cụ già ra sân dễ bị cảm đột ngột lắm. Gạch men
Trung Quốc đang rẻ. Chậu sứ Trung Quốc vừa

túi tiền. Tôi thú vị nhất cái
máy đun nước tắm bằng điện của Liên Xô có hai vòi nước
nóng lạnh thật tiện lợi. Từ nay không phải một tay xách
ấm một tay xách phích quây cái ni lông ra máy nước để tắm
nữa. Tôi đang hào hứng đấu điện cho buồng tắm mới thì
cha tôi bước vào nói “Bác Liên mất rồi. Đi với

bố đến xem thế nào”.

Nhà bác Liên ở không xa nhà tôi,
khi cha con tôi đến sáu bảy người bạn cũ đã đến rồi.
Chính quyền phường đang làm thủ tục kiểm kê và niêm phong
tài sản của bác theo đúng luật để chuyển giao cho người
thừa kế hợp pháp. Tang lễ bác được địa phương đứng
ra lo theo tiêu chuẩn dành cho người cô đơn không nơi nương
tựa. Việc khâm liệm bác được gia đình hộ ở tầng dưới
lo chu tất. Tôi lặng nhìn : một cụ già nhỏ thó, da trắng,
mỏng như giấy nằm tĩnh lặng trong bộ comlê (đoóc mơi) màu
ghi sáng. Mái tóc bạc thưa lộ ra phía trên tấm vải điều
phủ mặt.

Tất cả những người dự viếng
ngồi im lặng xung quanh một cái bàn mộc, vừa uống nước
vừa bàn công việc tang lễ ngày mai. Bà cụ ở hộ thuê tầng
dưới không khóc nhưng mắt đỏ hoe. Bà cụ kể :

– Các ông các bà đừng tưởng là
cụ bị đói, bữa nào tôi cũng thổi cơm bưng lên nhà cho
cụ. Gạo của cụ còn đầy hai nồi kia : gạo ngon cụ đóng
oản thờ, gạo hẩm cụ xơi. Nhưng mấy hôm nay cụ không ăn,
cụ mang cơm lên sân thượng cho đàn chim sẻ. Mấy lần tôi
để ý, rón rén trèo lên sân thượng xem. Lạy

giời, lạy Phật các ông các bà
ạ, giời rét thế mà chim sẻ, chim gì ở đâu nó cứ bay về
ràn rạt mỗi con ngậm một hột cơm nơi tay cụ rồi lại
bay đi. Tôi cứ cầu được đứng nhìn cụ mãi vì nom cụ
đẹp như ông bụt ấy. Sau thấy cụ chỉ phong phanh manh áo
lụa, sợ cụ bị cảm lạnh tôi phải thỉnh cụ xuống nhà.

Sáng hôm nay trời giở gió, cụ
bảo tôi xách cho cụ một xô nước lên sân thượng, tôi không
biết cụ định làm gì nên vẫn xách lên. Hóa ra cụ tắm.
Lúc tôi nghe tiếng ngã chạy lên, cụ đã hóa rồi. Cụ nằm
trên sân ấy, thân hình nguyên vẹn như lúc cha mẹ mới sinh.
Không cầm được lòng, tôi chạy xuống nhà

mở rương lấy xấp vải trắng
tôi vẫn dành dụm cho tôi để quấn quanh hình hài cụ rồi
tôi mới đi báo phường.

Nghe chuyện của bà cụ xong mọi
người chia tay nhau ai về nhà nấy. Trên đường về đi giữa
phố phường nhộn nhịp còi xe, tâm trí tôi cứ bị xúc động
mãi về cái chết của bác Liên qua câu chuyện vừa nghe. Như
thế, giữa Hà Nội đông đúc ồn ào này có một ngôi nhà,
có một góc sân thượng thật thanh khiết. Trong ngôi nhà ấy
có một cụ già suốt cả đời sống hiền lương. Trên mảnh
sân thượng ấy hàng ngày cụ đứng, ngồi, đọc sách, suy
ngẫm, vui vầy với đám chim bé nhỏ và mây trời, cây lá.
Không biết có lúc nào bác Liên nhìn xuyên qua thành phố để
đến bên cạnh, thật gần với những kiếp người cơ khổ
không ? Không biết có lúc nào bác Liên nhìn xuyên qua được
khoảng không đầy mây vần vũ kia để đến được tầng
trời vô sắc giới, nơi chói lòa ánh sáng vĩnh hằng không
?

Về đến nhà tôi giục cha tôi đi
tắm ngay với ý muốn ông là người “cắt băng khánh thành”
cho cái công trình “toalét” hiện đại của tôi. Tắm táp xong
tôi thấy cha tôi khóc. Mắt người đỏ hoe, ông bảo :

– Tắm nước nóng ở cái Sốpphơbanh
của mày thú thật. Còn bác Liên thì chết rét sáng hôm nay.

*

Tôi ngậm ngùi không biết nói sao.

Đêm ấy, gia đình tôi thức khuya,
tôi, lúc này là một người đàn ông có tuổi, còn cha tôi
đã làm ông nội từ lâu. Tôi nói :

– Con muốn viết ít dòng về bác
Liên. Mọi chuyện về bác mấy chục năm qua con đã biết kỹ,
riêng còn một khoảng trống : cuộc sống tình cảm, tình ái
của bác ở thời tráng niên. Vì sao một người đàn ông,
một người thanh niên ăn chơi nhất hạng Hà thành như bác
lại không có bóng dáng một người phụ nữ nào trong cuộc
đời ?

Đột nhiên cha tôi nổi cáu lên
:

– Tao không nói bác ấy là người
ăn chơi nhất hạng mà là ăn diện nhất hạng. Mày cứ liệu
hồn với những từ ngữ nói ẩu với bố như thế.

Tôi biết lỗi, nín lặng. Mẹ tôi
thấy thế thương hại kể :

Xem thêm :  Bật mí phong cách ăn mặc đẹp trẻ trung cho nàng công sở

– Thời trước cách mạng, có cô
Lệ Lý học trước mẹ mấy năm ở trường Đồng Khánh nổi
tiếng đẹp và ngổ ngáo. Trong khi các cô khác đi học còn
phải có anh xe nhà đưa đi, đón về thì cô Lệ Lý dám mặc
quần soóc, đi xe đạp đến trường. Bác Liên mê cô này lắm.
Bác Liên là con giai cả ông Tuần phủ, khi

ấy đã đỗ cử nhân luật rồi
nhưng bác khinh nghề quan lại, không thèm đi thi tri huyện.
Còn cô Lệ Lý là con ông Hàn ở gần nhà bà ngoại mình ấy.
Nhà ông Hàn có mở xe đòn đám ma. Gia đình ông Tuần có ý
chê nhà ông Hàn hạ lưu, giàu sổi, không môn đăng hộ đối.
Thế rồi bà Tuần bị bệnh chết đột ngột, câu chuyện
đành gác lại ở đấy. Ngày ấy sắp sửa cách mạng, Hà
Nội cứ ầm ầm cả lên, rồi cách mạng thành công, rồi
kháng chiến, rồi tản cư mỗi người mỗi ngả không biết
sau này ra sao ?

Lúc này cha tôi bớt nóng, ông hứa
sẽ hỏi thêm mấy người bạn của bác Liên cùng đi tham gia
kháng chiến rồi sẽ kể cho tôi.

Nhờ cha tôi giới thiệu, tôi chịu
khó đi hỏi han nhiều người chắp lại, được câu chuyện
này. Vì câu chuyện kéo dài suốt cả một đời người nên
tôi dùng đại từ “ông” và “bà” để chỉ bác Liên và cô
Lệ Lý. Như cha mẹ tôi đã kể thoáng qua. Dự định của
ông muốn hỏi bà bị gia đình cụ Tuần ngăn trở. Ngày

ấy làm gì có tự do hôn nhân mặc
dù anh là người văn minh âu học đến đâu chăng nữa. Ông
và bà chỉ biết đưa mắt nhìn nhau mỗi buổi tan học, khi
ông đứng đợi bà ở xa xa cổng trường. Suy đi tính lại,
cuối cùng ông nhờ một bà bác họ xa ở tận Thành Nam có
quen biết cả hai nhà lên Hà Nội đưa ông đến ra

mắt nhà gái. Bữa ấy thật rộn
ràng. Nhà cụ Hàn đèn nến sáng choang như ngày tết, kẻ ăn
người làm đi lại nhộn nhịp. Khi ông đến, nơi này chào,
nơi kia chào “Lạy quan cử ạ ! Lạy quan cử ạ !” Tiếng các
cụ tấm tắc “Cậu cử con cụ lớn Tuần nom tuấn tú quá
!” Chuyện vãn một tuần trà, cụ Hàn nổi cơn thèm “ù

chi chi, bát sách” lên, vẫy tay gọi
ông :

– Này cậu cử. Mời cậu vào một
chân.

Ông đứng dậy, lễ phép :

– Bẩm các cụ, xin mời các cụ,
con không biết chơi xin kiếu ạ !

Cụ Hàn cười khà khà.

– Cậu cử há lại chẳng biết câu
này sao :

“Làm trai biết đánh tổ tôm

Uống chè mạn bảo, xem nôm Thúy
Kiều…”

Cũng may vừa lúc đó cô Lệ Lý
bưng khay nước tha thướt đi lên. Cụ Hàn bảo :

– Này cô, cậu cử không thích đánh
tổ tôm, cô mời cậu cử vào phòng trong uống nước.

Bữa ấy tháng tư, trong phòng của
bà có một bình hoa loa kèn đang nở. Lần đầu tiên ông được
ngồi gần bà đến thế.

Mùi vị và hương sắc thấm đẫm
trái tim lãng tử của ông. Ông ví bà với cô gái trong họa
phẩm “Thiếu nữ bên hoa huệ” của Tô Ngọc Vân. Ông nhấn
mạnh hoa ấy không phải hoa huệ mà là một loài hoa gốc châu
Âu tên là lis tiếng ta gọi là hoa loa kèn hay hoa huệ Tây.
Hoa ấy là hoa biểu trưng của đoàn hướng đạo sinh thể
hiện tính ngay thẳng và lòng trong trắng. Bà ngồi yên nghe,
e lệ chứ không dạn dĩ như ông tưởng.

Vài tháng sau ông còn được đứng
gần bà thêm một lần nữa khi bà cùng đoàn nữ sinh áo dài
trắng trường Đồng Khánh lên sân khấu Nhà hát lớn thành
phố hát ra mắt ca khúc “Đàn chim Việt” của Văn Cao : “Về
đây khi gió mùa thơm ngát ơi cánh chim giang hồ…”

Lần này ông mạnh dạn mời bà
đến thăm nhà ông, như bạn bè. Bà ngước mắt lên rồi nhìn
xuống :

– Thôi, anh ! Quan Tuần nghiêm lắm.
Em sợ.

Việc bà cụ Tuần mất đột ngột
làm ông khuỵu xuống. Nỗi buồn riêng cộng với nỗi đau
tang chế khiến ông nằng nặc đòi về quê ở để trông nom
phần mộ mặc dầu cụ Tuần năn nỉ ông ra ứng thi tri huyện
kỳ này : “Anh ra làm quan cho tôi lấy một ngày cũng được”.
Ông sống hơn một năm ở quê nhà. Đến lúc khởi nghĩa tháng
Tám bùng nổ, ông tham gia cách mạng ở làng rồi làm công
tác xã hội cho đến ngày Toàn quốc kháng chiến ông không
có dịp gặp lại bà nữa. Tây đánh lên, ông đi thẳng vào
cuộc trường kỳ kháng chiến với tấm lòng của một người
thanh niên trí thức hào hoa, hồn nhiên và ngay thẳng. Ông làm
việc kháng chiến nhưng ông vẫn ăn diện, vẫn có người
bõ già đi theo hầu như thuở nào. Ông được cử làm thanh
tra tuyên truyền một tỉnh miền trung du. – đấy, ông được
biết tin bà đi tản cư và đã lấy chồng. Chồng bà là một
chỉ huy quân sự xuất sắc vùng chiến khu với dáng vẻ ngang
tàng trận mạc : bộ quần áo kaki Mỹ, khẩu súng lục trễ
bên hông, vị chỉ huy bộ đội đã nhanh chóng chiếm được
cảm tình của cô nữ sinh đẹp lẫy lừng Hà Nội. Làm quen
nhanh rồi đám cưới cũng nhanh vì cuộc chiến không trùng
trình đợi ai. Sau khi lấy chồng bà thoát ly làm cán bộ phụ
vận.

Kháng chiến khói lửa ngút trời
nhưng những dịp tình cờ vẫn có. Đoàn công tác phụ nữ
của bà đi sang tỉnh ông. Hai người gặp nhau bên một hẻm
đồi khi ông đi một mình về cơ quan, vừa đi vừa nghêu ngao:

“Những chàng trai chưa trắng rợ
anh hùng

Hồn mười phương phất phơ cờ
đỏ thắm…”

Chuyện trò, khai hội suốt cả buổi
chiều, họ gặp nhau vào buổi tối. Đêm ấy có trăng, không
khí thoáng đãng của vùng tự do xóa tan lễ giáo nghìn xưa.
Hai người ngồi bên cạnh nhau dưới một gốc cây cọ, những
tán cọ xòe to che chở họ. Bà nghẹn ngào vì đau khổ : một
bên là ông hào hoa phong nhã, người

bà từng ước mơ ngày xưa, một
bên là người chồng anh hùng đang xả thân nơi chiến địa.
Ngồi nói chuyện, hai người cứ xích lại gần nhau rồi bà
nằm trong tay ông lúc nào không biết. Đến khi hai vạt áo
của bà rơi ra, người ông run bắn lên. Ông cảm thấy thân
thể bà cũng đang run trong tay ông. Một thoáng qua, ông rùng
mình hiểu tất cả. Cặp mắt bà kinh hoàng hệt như cặp mắt
của một con nai sắp bị đem đi giết thịt. – đấy có hai
giọt lệ rơi ra trong tiếng nấc : “Không, không được đâu
anh ơi !” Thêm một phút nặng nề nữa, ông và bà cùng đứng
dậy, nhọc nhằn. Xa xa, trên những con đường nhỏ ngoằn
ngoèo ven đồi thấp thoáng ánh đuốc của những người đi
học bình dân học vụ trở về.

*

Sau ngày kháng chiến thắng lợi,
cùng trở về thủ đô bà vẫn biết tin tức ông nhưng bà
cố gắng không tìm gặp ông. Chuyện chưa có gì cả, vả lại
bụi thời gian đã phủ mờ. Những năm hòa bình mới lập
lại có nhiều vấn đề phức tạp lắm. Hơn thế, chồng bà
đã được phong tướng bà còn bận bịu với biết bao công

việc.

Đến khi nghe một bà bạn nói chuyện
ông tu hành theo Phật, bà sửng sốt, thoạt đầu không tin
: “Ai đấy chứ, người ấy thì có bao giờ…” Bà suy tính
rồi quyết định đến thăm ông. Tình cờ, hôm ấy cũng là
một ngày tháng tư. Bà cho cậu lái đỗ xe xa xa phố nhà ông
ở. Bà dắt theo đứa cháu nội, tha thẩn vào chợ tìm mua
một bó hoa loa kèn thật đẹp, bọc cẩn thận bằng lá rồi
mới lên nhà ông “Hai mươi chín năm trời…” bà lẩm bẩm.
Khi bước lên cầu thang bà bỗng thấy bối rối như bà không
phải là bà bây giờ mà vẫn là cô nữ sinh Lệ Lý ngày nào.
Xưa kia bà đã không dám tới nhà ông dù bà rất muốn, nếu

lên nhà ông hôm ấy, cuộc đời
ông chắc khác… chẳng đến nỗi như bây giờ.

– Quý bà vào lễ Phật.

Tiếng nói của ông có già đi nhưng
vẫn trong trẻo nhẹ nhàng. Bàn thờ Phật ông bày gọn, không
u tịch mà vẫn nghiêm trang. Thoáng chút rùng mình trong khói
hương, bà thốt lên lời đáp “Mô Phật” ông vừa châm xong
cây đèn ở phía cuối bàn thờ khoan thai bước ra. Ông không
mặc áo tu hành, không đeo tràng hạt, không gọt tóc. Ông mặc
áo sơ mi vải phin xanh da trời, quần âu kaki Nam Định, đều
là thẳng nếp, có đủ măng sét gài ở cổ tay áo. Tóc ông
thưa, hói đến nửa đầu, ngả bạc gần hết. Ông đã nhận
ra bà, bước chân ông chỉ hơi chững lại một phút rồi ông
khoan thai đi tiếp đến bên bàn nước, nhấc chiếc

ghế mây :

– Mời bà ngồi xơi nước.

Ông chậm rãi súc ấm, chén pha trà.
Bà ngồi lặng đi, cầm chặt tay đứa cháu nội, nhìn ông,
nhìn xung quanh nhà ông :

Xem thêm :  The 26 Best Rum Cocktails That Are Fun And Taste Fantastic

– Ông Liên… anh Liên, anh sống thế
này ư ?

Ông đưa chén nước cho bà bằng
hai tay. Cái chén sứ rất mỏng, đặt trên cái đĩa chén cũng
rất mỏng, nắng quái từ cửa sổ chiếu vào in rõ ngấn nước
chè vàng đậm trong lòng chén. Mùi hương trà ướp hoa sen thoang
thoảng theo làn hơi trắng cứ vẩn vơ mãi trên cái màu óng
ả của nuớc trà loại một. Ông chậm rãi :

– Từ năm một nghìn chín trăm năm
mươi bảy, tôi thấy yếu sức, tôi xin nghỉ. Bây giờ thì…
ông đưa mắt nhìn xung quanh gian phòng mình : bàn thờ, giá
sách, lọ hoa, ngọn đèn… bà thấy đấy, tôi đọc sách,
chăm cây cảnh và đi thăm thú bạn bè.

Ông không hỏi thăm gì về đời
riêng của bà. Bà cũng biết những nét chính về cuộc sống
của ông qua lời bà bạn kể lại. Thời giờ ít, bà muốn
đi ngay vào việc cụ thể. Bà hỏi :

– Anh Liên, anh ăn chay có thấy người
mệt lắm không ?

– Tôi không ăn chay – Ông đáp ngay
– tôi thích những thức ăn thực vật : lạc, vừng, rau tươi,
hoa quả, chúng hợp với tạng tôi.

Bà không chịu :

– Em hiểu. Phiếu thực phẩm của
anh là phiếu nhân dân loại N, thịt ướp đá, bạc nhạc,
nước mắm loại ba. Em sẽ lấy được cho anh sổ hưu trí.
Với mức lương của anh, anh sẽ có phiếu cán bộ bìa C. Anh
xứng đáng được hưởng như thế.

Ông khoát tay :

– Đừng !

Bà im bặt. Lời đáp của ông nhẹ
nhàng nhưng đanh làm tan biến bao dự định bà toan tính làm
cho ông mà chắc chắn bà làm được. Ngồi một lát, bà cố
vớt vát lần cuối cùng.

– Dù sao anh cũng phải ăn đủ chất
để giữ sức khỏe. Em không dám đến thăm anh luôn, sợ phiền
anh. Em sẽ cho chú lái xe hàng tháng mang những thực phẩm tốt
lại cho anh dùng. Em có sổ cung cấp riêng, anh Liên ạ !

Đôi mắt ông ánh lên một tia giễu
cợt :

– Nuôi tăng tức là kính Phật, xin
bà cứ tùy tâm. Tôi nguyện hàng ngày cầu Đức Phật phù
hộ cho bà.

Bà không giận ông vì câu nói ấy.
Bà giữ đúng lời hứa. Ngay tháng sau bà cho người đến biếu
ông hai bộ quần áo may bằng lụa Ấn Độ, hàng tháng bà
gửi thực phẩm đến cho ông đều đặn còn ông dùng hay cho
đi, bà không biết. Phần bà, mỗi năm cứ vào khoảng tháng
tư dương lịch bà lại dắt theo đứa cháu nội đến thăm
ông. Lúc đến, bà cho xe đỗ ở xa xa nhà ông, bà dắt đứa
cháu vào chợ mua một bó hoa loa kèn to mang lên cắm đầy các
bình hoa trên bàn thờ Phật. Những năm về sau ông thường
ngồi thiền định lâu hơn, hầu như có lúc ông không để
ý đến khách vào. Dù ông có tiếp hay không tiếp, lần nào
bà cũng ngồi lại nhìn ông khoảng ba mươi phút rồi mới
về. Lúc lên xe, lòng bà nặng trĩu…

*

Sáng hôm sau tôi đến đám tang thật
sớm vì cha tôi dặn đến sớm xem có việc gì thì giúp. Thật
ra tôi không phải làm gì. Hội thọ đứng ra làm thủ tục
còn hội Phật giành quyền tổ chức nghi lễ. Đám tang của
bác Liên đông lắm, đông nhất là Phật tử, các bà, các
cụ thường ngày mỗi người một việc, có bà buôn bán ngoài
chợ, làm chủ cửa hiệu, có bà là cán bộ về hưu, có bà
làm mướn, làm công… đủ cả. Nhưng hôm nay trông bà nào
cũng như nhau : áo dài nâu sồng màu đất, chuỗi tràng hạt
đen huyền và gương mặt sùng kính. Tôi biết rằng một chữ
Phạn in trong cuốn kinh cầm trên tay kia các bà cũng không biết.
Tôi biết rằng một bụng chữ của các kho tàng Phật pháp
mà bác Liên đã mang theo kia, các bà không hiểu rõ lấy một
phần. Tôi còn biết rằng nhiều năm nay các bà không tới
lễ ở bàn thờ nhà bác Liên nữa vì bác đã thay ngôi tam
thế bằng pho tượng Đức Phật riêng của bác. Vậy mà những
tà áo dài nâu vẫn lặng lẽ trôi đi bên xe tang, trôi đi rất
lâu. Tiếng tụng kinh vẫn lan đều từ những bàn tay lần
tràng hạt. Cờ phướn bay trên khuôn mặt đoàn người.

Phía dưới cùng đám tang là các
cụ cựu sinh viên trường luật : bạn học của bác Liên và
của cha tôi. Các bác đều đã trên bảy mươi cả, có bác
bảy ba, có bác bảy tám, một thời chưa xa, các bác còn là
đàn chiến mã tung hoành trên những lĩnh vực cao, xa nhất
của đất nước : ngoại giao, thương mại, pháp

luật, giáo dục… Nay, các bác
đã về hưu cả. Có bác trông hồng hào nhưng mang bệnh huyết
áp, có bác rắn rỏi nhưng bị khối u trong dạ dày, có bác
đeo máy điếc. Tôi cũng có hân hạnh được biết gần hết
các bác trong một số buổi họp lớp thường được tổ chức
luân phiên ở nhà nhau, có mấy lần ở nhà tôi, thú thực,
tôi rất mê phong cách tư duy của các bác : mỗi vấn đề,
dù nghiêm chỉnh đến đâu đều được các bác nhìn nhận
dưới góc độ hài hước và nhân bản. Trong những buổi liên
hoan ngọt đơn sơ đó, nghe tiếng cười của các cụ già trí
thức thật sảng khoái, vô tư lự, khác hẳn tiếng cười
hô hố của bọn phàm

phu mà đôi ba lần, do công việc
làm ăn, tôi được dự tiếp ở các nhà hàng sang trọng. Giờ
đây, các cụ đi bên nhau bình thản để tiễn đưa một người
bạn “về” trước. bác Tuấn, bảy mươi sáu tuổi, nhà nghiên
cứu Hán Nôm có tiếng, cất giọng bùi ngùi.

– Năm một chín bốn mươi, đỗ
tú tài toàn phần trường Bưởi được hai mươi anh, cả nhóm
kéo nhau đi chùa Trầm chơi hôm ấy Liên hát bài “Biệt ly”
của Doãn Mẫn nghe cảm lắm.

Bác Ngữ, tiến sĩ luật, bảy mươi
nhăm tuổi, đi lui lại nói nhỏ với cha tôi :

– “Me sừ” Liên thành Phật thật
chứ không phải bỡn. Chúng ta không thể so với “lúy” được,
“lúy” trong sáng quá. Khi xưa, biết “toa” bị nạn “moa” không
dám đến thăm vì sợ liên lụy. Lúc bấy giờ ai cũng sợ.
Cánh ta chỉ là lũ chúng sinh muôn đời lẩn quẩn trong kiếp
luân hồi, không bao giờ lên được cõi Niết bàn là phải.

Cha tôi chưa kịp trả lời thì bác
Cơ đã kéo lại rủ bàn về cuộc họp lớp sắp tới.

Cuộc đi đưa tiễn người quá cố
đã dài, đoàn người và xe tang dừng lại. Bà cụ ở tầng
dưới nhà bác Liên đi mời trầu cau cho khách đàn bà và mời
thuốc lá cho đàn ông. Hôm nay trông bà cụ khác hẳn : đôi
môi cụ quết trầu đỏ tươi, tà áo dài nâu vải mới sột
soạt, chuỗi tràng hạt lủng lẳng nơi bụng. Gặp

khách hỏi thăm nói phải tiếng
“chết” bao giờ cụ cũng nhắc nhở :

– Ấy bác đừng nói thế, phải
tội, cụ hóa đấy. Các bác đừng tưởng tôi để cụ đói
nhé. Hàng ngày tôi thổi hai bữa cơm dâng lên, cụ truyền
mang lên sân thượng cho đàn chim sẻ. Cụ muốn thanh tịnh.
Hôm qua trời trở gió, cụ bảo tôi mang nước lên sân thượng
cho cụ tắm. Lúc cụ hóa tôi nghe thấy có tiếng đàn, tiếng
sáo trên trời…

Bà cụ ngước lên trời. Tôi cũng
ngẩng đầu nhìn theo tay bà cụ chỉ, đau đây như nghe tiếng
vỗ cánh của hàng vạn, hàng vạn đàn chim sẻ. Tôi không
biết tôi đã đủ đức tin chưa nhưng tôi thấy lúc này lòng
tôi trong trẻo lạ, cái thiện tràn ngập tâm hồn tôi. Còn
gì nữa… Những toan tính đời thường hôm qua đối với
tôi là vô cùng quan trọng thì hôm nay trở nên nhỏ bé và
chìm đi đâu hết cả. Còn gì nữa…? Bất giác, như bị ám
thị tôi nhìn về phía sau : một chiếc xe Nhật đời mới
màu ghi, kính thẫm đi từ từ và dừng lại ở phía cuối
đoàn người đi bộ đưa tang. Cửa xe mở, một bà cụ trông
hồng hào phúc hậu nặng nhọc bước ra. Chính là bà, bà sang
trọng, tháng tư, hoa loa kèn, bà Lệ Lý. “Sao đến bây giờ
bà mới tới ?”

Tôi muốn kêu to lên nhưng cổ nghẹn
cứng không thốt nên lời.

Bà cụ nặng nhọc bước ra, phải
vịn vào vai một cậu trai chừng mười chín tuổi, chậm chạp
từng bước tới gần xe chuyển cữu. Một tay đỡ bà, một
tay chàng trai xách cái làn to, bên trong làn đầy những hoa
loa kèn còn ương nụ, những nụ hoa nhòn nhọn, màu phớt xanh…

 

Nguyễn
Hoàng Huy (Hà Nội)

(1) Bachelier Philosophie, Mathématique :
bằng tú tài triết học, toán học

nói tắt.


TSTN Cách làm cho cây hoa loa kèn ra hoa vào dịp tết


Các danh sách theo chủ đề:
Kids_Chơi mà học: https://www.youtube.com/playlist?list=PLSgxzKB6PoddcAAEaK_D_lalYLr889VQ5
Vẽ TranhSửa ảnh: https://www.youtube.com/playlist?list=PLSgxzKB6PodeQ7rOuP_0x05B_I7NG_DtL
Mọi thứ Tại sao? Thế nào?:
https://www.youtube.com/playlist?list=PLSgxzKB6PodduEPT47tFGvVqwXc7oAkdE
Hãy đăng ký kênh theo link này để xem Videos mới trước nhất: https://www.youtube.com/nguyenvanthiep

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Tổng Hợp
Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Tổng Hợp

Related Articles

Back to top button