Giáo Dục

Nghị luận xã hội

Bạn đang xem: Nghị luận xã hội Tại Website vuongquocdongu.com

nghị luận xã hội



Chuyên đề

NGHỊ LUẬN
XÃ HỘI

I. NGHỊ LUẬN
XÃ HỘI LÀ GÌ?

– “Nghị luận là một thể loại
văn học đặc biệt, dùng lí lẽ, phán đoán, chứng cứ để bàn luận về một vấn đề nào
đó (chính trị, xã hội, văn học nghệ thuật, triết học, đạo đức). Vấn đề được nêu
ra như một câu hỏi cần giải đáp, làm sáng tỏ. Luận là bàn về đúng, sai, phải,
trái, khẳng định điều này, bác bỏ điều kia, để người ta nhận ra chân lí, đồng
tình với mình, chia sẻ quan điểm và niềm tin của mình. Sức mạnh của văn nghị luận
là ở sự sâu sắc của tư tưởng, tình cảm, tính mạch lạc, chặt chẽ của suy nghĩ và
trình bày, sự thuyết phục của lập luận. Vận dụng các thao tác như giải thích,
phân tích, chứng minh, bác bỏ, so sánh…” (Sách giáo khoa Ngữ Văn 11, tập 2).

– Nghị luận xã hội là những
bài văn bàn về những vấn đề diễn ra xung quanh đời sống, xã hội. Đề tài của dạng
bài nghị luận xã hội cũng hết sức rộng mở. Nó gồm tất cả những vấn đề về tư tưởng,
đạo lí, một lối sống đẹp, một hiện tượng tích cực hoặc tiêu cực trong cuộc sống
hàng ngày, vấn đề thiên nhiên môi trường, vấn đề hội nhập, toàn cầu hoá…Nghĩa
là, ngoài những tác phẩm nghị luận văn học (lấy tác phẩm văn học, nhà văn làm đối
tượng), tất cả các dạng văn bản viết khác đều có khả năng được xếp vào dạng nghị
luận xã hội, chính trị.

II. NHỮNG YÊU
CẦU KHI LÀM VĂN NLXH

– Phải đọc kĩ đề,
phân biệt được đề thuộc kiểu (dạng) nào?

– Nắm được cấu
trúc từng loại, từng dạng để bám vào viết cho đúng.

– Nội dung trọng
tâm, lời văn, câu văn, đoạn văn viết phải cô đúc, ngắn gọn. Lập luận phải chặt
chẽ, cảm xúc phải trong sáng, lành mạnh.

– Không lấy dẫn
chứng chung chung mà phải có tính thực tế và thuyết phục.

– Phải đọc kĩ đề,
gạch chân dưới những từ, cụm từ quan trọng để giải thích và lập luận cho đúng.
Những từ, cụm từ này phải thường xuyên được nhắc lại trong các luận điểm.

– Có năng lực
thâu tóm, nắm bắt các vấn đề xã hội xảy ra ngoài cuộc sống…

– Mạnh dạn đề xuất
quan điểm, cách nghĩ của bản thân, lập luận sao cho thuyết phục được người đọc.

– Biết lật ngược
vấn đề, soi chiếu vấn đề ở nhiều khía cạnh để luận bàn – yêu cầu đòi hỏi bản
lĩnh của người viết.

III. PHÂN LOẠI
ĐỀ VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI

Nghị luận xã hội trong nhà
trường phổ thông thường có ba dạng đề chính. Tuy nhiên để cụ thể hơn trong việc
nhận diện, từ đó có cách làm tương ứng phù hợp, dựa vào đề thi của các năm,
chuyên đề sẽ cụ thể hóa thành các dạng sau:

1. Nghị luận về
một tư tưởng, đạo lí

2. Nghị luận về
một hiện tượng đời sống

3. Nghị luận về
một vấn đề xã hội được đặt ra trong tác phẩm văn học hoặc trong một câu chuyện.

4. Dạng đề nghị
luận kết hợp hai mặt tốt – xấu trong một vấn đề

5. Dạng đề nghị
luận mang tính chất đối thoại – bộc lộ suy nghĩ, quan điểm bản thân (mang tính
đối thoại) về vấn đề được đặt ra.

6. Nghị luận về
một vấn đề được gợi ra từ một hình ảnh/bức tranh.

          Việc
phân chia chỉ mang tính tương đối, vì trong thực tế có những đề không rạch ròi,
mang tính đánh lừa người viết. Do đó, cần linh hoạt, tỉnh táo để nhận diện
chính xác từng dạng, từ đó đề xuất cho mình cách viết phù hợp.

IV. CẤU
TRÚC/DÀN Ý GỢI Ý

Dạng 1 :  NGHỊ LUẬN VỀ MỘT TƯ TƯỞNG, ĐẠO LÝ

1. Khái niệm:

Nghị luận về một tư tưởng, đạo lý là bàn về một vấn đề
thuộc lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, quan điểm nhân sinh (như các vấn đề về nhận
thức, về tâm hồn nhân cách, về các quan hệ gia đình, xã hội, cách ứng xử, lối sống
của con người trong xã hội…).

 Đối với học
sinh trong nhà trường phổ thông, do đặc điểm tâm lý, lứa tuổi, tầm nhận thức
nên những vấn đề đặt ra để bàn luận không phải là những vấn đề quá phức tạp, lớn
lao mà chỉ là những vấn đề đạo đức, tư tưởng, tình cảm gắn liền với cuộc sống
hàng ngày như tình cảm quê hương, bạn bè, ý thức trách nhiệm, tinh thần học tập…
Những vấn đề này có thể được đặt ra một cách trực tiếp, nhưng thông thường là
được gợi mở qua một câu danh ngôn, châm ngôn, ngạn ngữ, ca dao hay câu nói của
một nhà văn hóa, nhà khoa học, người nổi tiếng…

2. Phân loại:

Nghị luận về một tư tưởng, đạo lý thường tồn tại ở các
dạng:

– Dạng luận bàn về một tính cách hoặc một trạng thái
tâm lý

VD:

          + Tự
trọng và tự kiêu

          + Luận
về sự bình yên.

– Dạng đề đưa ra một hoặc hai nhận định, nhận định
ấy có thể xuất hiện qua một câu nói, một câu thơ/ một lời hát, một châm ngôn, một
tục ngữ, ca dao…

VD:

          +
Anh/chị nghĩ gì về câu nói: “Người chê ta
mà chê phải là thầy ta, người khen ta mà khen phải là bạn ta, những kẻ vuốt ve,
nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy”. (Tuân Tử)

          + Cố nhạc
sĩ Trịnh Công Sơn từng viết: “Sống trong
đời sống, cần có một tấm lòng. Để làm gì, em biết không?. Để gió cuốn đi…”.
Suy nghĩ của anh/chị về lời bài hát.

          +
Anh/chị hãy trả lời câu hỏi sau của nhà thơ Tố Hữu: “Ôi! Sống đẹp là thế nào, hỡi bạn?”.

          + Có ý
kiến cho rằng: “Nếu anh bắn súng lục vào
quá khứ, tương lai sẽ bắn anh bằng đại bác”.

          Nhưng Tổng
Giám độc tập đoàn Coca Cola, Bryan Dion lại khẳng định:

          “Bạn chớ để cuộc sống trôi qua kẽ tay vì bạn
cứ mãi đắm chìm trong quá khứ hay ảo tưởng về tương lai. Chỉ bằng cách sống cuộc
đời mình trong từng khoảnh khắc của nó, bạn sẽ sống trọn vẹn từng ngày của đời
mình”

          Anh/chị
suy nghĩ như thế nào trước những lời khuyên ấy?

+ Có người nói: “Hãy làm theo sự mách bảo của con
tim”. Suy nhĩ cảu anh/chị như thế nào về câu nói đó. ( Vũ Lân tự ra)

          Đối với
học sinh chuyên, thì dạng nhận định về hai nhận định là dạng thường được đề xuất.

3. Cách làm:

– Trước hết, phần mở
bài
phải giới thiệu khái quát
tưởng, đạo lý cần nghị luận. Nêu ý chính (vấn đề) hoặc câu nói về tư tưởng, đạo
lý mà đề bài đưa ra.

– Phần thân bài,
có nhiều luận điểm. Tuy nhiên cần đảm bảo:

+ LĐ 1: Giải thích rõ nội dung tư tưởng đạo lý. Bao gồm:

· Giải thích các từ ngữ, thuật
ngữ, khái niệm, nghĩa đen/nghĩa bóng (nếu có)

· Rút ra ý nghĩa chung của tư
tưởng, đạo lý

Thực chất là đi trả lời cho câu hỏi LÀ GÌ?

+ LĐ 2: Phân tích, chứng minh
các mặt đúng của tư tưởng, đạo lý. Dùng dẫn chứng để chứng minh. Từ đó, chỉ ra
tầm quan trọng, tác dụng của tư tưởng, đạo lý đối với đời sống xã hội.

Thực chất là đi trả lời cho câu hỏi TẠI SAO? NHƯ THẾ NÀO?

+ LĐ 3: Bình luận, mở rộng vấn đề, bác bỏ những biểu
hiện sai lệch có liên quan đến tư tưởng, đạo lý vì có những tư tưởng, đạo lý
đúng trong thời đại này nhưng hạn chế trong thời đại khác, đúng trong hoàn cảnh
này nhưng chưa đúng trong hoàn cảnh khác. Dùng dẫn chứng minh họa.

Thực chất của luận điểm này là trả lời một số câu hỏi
nhằm lật ngược vấn đề, nhìn nhận vấn đề trong nhiều chiều, nhiều góc độ, thấu
đáo hơn, tránh áp đặt khiên cưỡng (VD, các câu hỏi như: có ngoại lệ hay không?
Vấn đề có thể đúng/sai trong những hoàn cảnh khác nhau như thế nào?…)

+ LĐ 4: Rút ra bài học nhận thức (đúng hay sai?) và
hành động (cần làm gì?). Đây là một luận điểm nhỏ nhưng là vấn đề cơ bản của
nghị luận xã hội bởi mục đích của việc nghị luận là rút ra những kết luận đúng
để thuyết phục người đọc.

– Phần kết bài,
liên hệ bản thân, đánh giá chung về vấn đề.

4. Dàn ý gợi
ý:

a/MB: Giới thiệu vấn đề cần nghị luận/trích dẫn nhận định
(nếu có)

b/TB:

Luận điểm

Cách làm

1/Giải thích: Nghĩa của từ/cụm từ/cả
câu (nghĩa đen, nghĩa hàm ẩn) LÀ GÌ?

– Dùng các từ gần nghĩa, cùng trường nghĩa để giải
thích

– Dùng các từ trái nghĩa đề giải thích

– Giải thích bằng cách nêu VD

2/Lý giải vấn
đề
(TẠI SAO?)

– Để ý vào các từ ngữ trong đề bài, đặt câu hỏi (tại
sao?) sẽ tìm được ý bình luận cho riêng mình.

– Lí giải kết hợp với chứng minh. Lưu ý, nên lấy những
dẫn chứng xã hội, người thật việc thật, không nên lấy dẫn chứng xã hội vì dễ
rơi vào xa hoặc lạc đề.

3/ Biểu hiện/hiện
trạng
: Vấn
đề được biểu hiện hoặc đang diễn ra như thế nào trong đời sống xã hội?

Đề cập hai phương diện:

– Tích cực: như thế nào?

– Tiêu cực: Tuy nhiên, bên cạnh đó có những biểu hiện,
tư tưởng trái ngược ntn? Phê phán.

4/ Đánh giá,
luận bàn vấn đề
.

Trả lời một số câu hỏi nhằm lật ngược vấn đề, nhìn
nhận vấn đề trong nhiều chiều, nhiều góc độ, thấu đáo hơn, tránh áp đặt khiên
cưỡng (VD, các câu hỏi như: có ngoại lệ hay không? Vấn đề có thể đúng/sai
trong những hoàn cảnh khác nhau như thế nào?…)

Đây là phần thể hiện bản lĩnh, độ sắc, nhạy của người
viết.

5/ Rút ra
bài học:

– BH nhận thức

– BH hành động

Phần này gần với việc đề xuất các giải pháp:

+ Cá nhân (mỗi người tự ý thức ra sao? Tu dưỡng phẩm
chất, đạo đức?…)

+ Gia đình?

+ Nhà trường?

+ Xã hội (tuyên truyền, tham gia các hoạt động xã hội…)

Lưu ý: – Dẫn chứng phải thuyết
phục, thường là NHÂN VẬT – SỰ KIỆN, không dùng dẫn chứng chung chung.

c/ KB: Khẳng định lại vấn đề

5. Đề và gợi ý
giải đề:

          Đối với
đối tượng là học sinh giỏi, xu hướng đề thường ra là lựa chọn một vấn đề được gửi
gắm qua hai nhận định (hai nhận
định này được phát biểu dưới dạng một ý kiến, một câu nói, một câu danh ngôn…).
Do đó, lưu ý, nếu đề bàn đến hai câu nói (nhận định, ý kiến) hoặc hai vế khác
nhau trong một câu nói (dạng này chuyên đề tách thành dạng nghị luận về một vấn
đề chứa đựng hai mặt tốt – xấu, sẽ trình bày cấu trúc cụ thể ở phần sau) thì
cách làm, phần lớn là: Giải thích, phân tích, bình luận từng ý kiến cho rõ ràng.
Đọc qua nghe chừng hai ý kiến rất mâu thuẫn nhau nhưng thực chất lại có mối
quan hệ nhất định với nhau. Mối quan hệ đó, có thể là bổ sung ý kiến cho nhau,
cũng có thể hoàn toàn đối lập nhau. Nhưng phần lớn là bổ sung, làm rõ thêm cho
cùng một vấn đề. Do đó, tùy vào đề bài, người viết cần linh hoạt và lựa chọn lối
đi cho mình sao cho phù hợp. Hoặc đồng tình với cả hai ý kiến, hoặc đứng hẳn về
một ý kiến hoặc lấy phần đúng trong mỗi ý kiến đề đề xuất cách hiểu đúng đắn.

Xem thêm :  Miêu tả ngôi nhà mơ ước của em lớp 6 đơn giản nhất, vẽ ngôi nhà mơ ước của em lớp 6 đơn giản nhất

Đề 1: Ngạn ngữ có câu:

“Cuộc đời ngắn
ngủi không cho phép ta ước vọng quá nhiều”.

Thế nhưng nhà văn Nga M.Prisvin lại cho rằng:

“Phải ước mơ nhiều
hơn nữa, phải ước mơ tha thiết hơn nữa để biến tương lai thành hiện tại”.

Hãy trình bày suy nghĩ của anh/chị về hai câu nói
trên.

Gợi ý giải đề

– Giải thích:

+ Ý kiến 1: “Cuộc đời ngắn ngủi” được hiểu là thời
gian dành cho mỗi con người luôn có hạn, không ai sống mãi được cùng với thời
gian.

-> Câu ngạn ngữ đưa ra lời khuyên: Cuộc sống luôn
có những giới hạn, con người sẽ không đủ thời gian để thực hiện ước mơ, vì vậy
không nên quá tham vọng, mơ ước những điều viển vông.

+ Ý kiến 2: “Biến tương lai thành hiện thức”, biến những
điều con người mơ ước, những điều chưa có trong hiện thực thành những thứ có thực.

-> Câu nói khuyên con người, phải có những ước mơ lớn
lao, như vậy mới biến tương lai thành sự thật.

=> Hai ý kiến đưa ra hai quan điểm tưởng như đối lập
nhưng thực chất là bổ sung cho nhau, thể hiện tọn vẹn hai mặt của một vấn đề.
Con người phải viết vươn cao,vươn xa nhưng đồng thời cũng phải tỉnh táo lựa chọn
cho mình những điều phù hợp, không chạy theo những giá trị phù du, viển vông,
vô nghĩa.

– Phân tích, chứng minh (tính đúng đắn hoặc sai lầm hoặc
vừa đúng vưà sai) của ý kiến bằng việc bày tỏ sự đồng tình (hoặc phản đối hoặc
vừa đồng tình vừa phản đối) đối với ý kiến:

+ Ước mơ và khát vọng sống làm nên vẻ đẹp cuộc sống: ước
mơ là một trong những thước đo tầm vóc của con người, những người có ước mơ
càng đẹp thì càng có khả năng tiến xa trong cuộc sống; người có ước mơ, hoài
bão mới có động cơ, phương hướng tìm tòi, tự học và sáng tạo; khi sống và làm
việc đề thực hiện ước mơ con người sẽ có niềm vui, niềm hạnh phúc, sẽ tìm thấy
ý nghĩa, giá trị của sự sống, con người sẽ cảm thấy cuộc sống không trôi đi một
cách vô nghĩa, lãng phí…

+ Ước mơ không đồng nghĩa với việc chạy theo những điều
viển vông, phi thực tế: không nên ước mơ xa vời mà phải thiết thực vì cuộc sống
là hữu hạn, con người không bao giờ đủ khả năng và thời gian để làm tất cả mọi
việc; Cuộc đời được tạo nên từ những điều bình dị, do đó không nên chạy theo những
ước mơ viễn vông mà đánh mất đi chân giá trị của cuộc ống; Đôi khi cần phải biết
bằng lòng với những gì mình đang có, bằng lòng với cuộc sống con người sẽ cảm
thấy thanh thản hơn, bình yên hơn.

=> Phải biết cân bằng giữa ước mơ và thực tại, ước
mơ bắt nguồn từ cuốc sống. Phải theo đuổi ước mơ nhưng đừng mơ một cách hão huyền.

– Bàn luận, mở rộng:

+ Phê phán hai hiện tượng”

++ Những người sống không có hoài bão, không biết vươn
lên để tạo ra một tương lai tốt đẹp. Cuộc sống của những con người này sẽ mãi
trì trệ, dậm chân tại chỗ.

++ Ngược lại, có những kẻ quá tham vọng, ước mơ viễn
vông mà chạy theo các giá trị phù du để rồi đánh mất mình

(Có thể dùng các dẫn chứng sau để chứng minh:

– Đặng Lê Nguyên Vũ – ông chủ hãng cà phê Trung
Nguyên, chứng kiến cảnh cha bị bệnh nặng, chỉ cần 2 triệu để có thể chạy chữa bệnh
cho cha, vậy mà vay mượn cả đại gia đình cuãng không đủ, cậu con trai 16 tuổi
đã thề với lòng: “Một ngày nào đó mình sẽ thay đổi cuộc sống của cả đại gia
đình này”. Sau này, cậu bé ngày nào đã khời nghiệp bằng căn nhà thuê chỉ vài
mét vuông để xay cà phê, đạp xe hàng cây số để giao hàng… lại trở thành ông chủ
tập đoàn sản xuất cà phê lớn nhất Việt Nam

– Walt Disney – giám đốc hãng phim truyền hình lớn nhất
thế giới. Sinh ra trong một gia đình nghèo khó, mê vẽ. Vì không có tiền nên đã
dùng than để vẽ lên giấy vệ sinh. Sau này đã trở thành cái tên đình đám trong
giới phim và các hãng truyền thông).

– Rút ra bài học

Đề 2: Có ý kiến cho rằng: “Sống là không chờ đợi, bởi vậy, để không
lãng phí thời gian, con người cần phải làm việc và nỗ lực hết mình”.

Lại cũng có ý kiến cho rằng: “Để cuộc đời trở nên có ý nghĩa, con người cần phải sống chậm lại, tận
hưởng những vẻ đẹp cuộc sống”.

Anh/chị đồng tình với quan điểm nào? Viết một bài văn
nghị luận trình bày suy nghĩ của anh chị về hai ý kiến trên.

Dạng 2 : NGHỊ
LUẬN VỀ MỘT HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG

1. Khái niệm:

Là bàn về một hiện tượng đang diễn ra trong thực tế đời
sống xã hội, mang tính chất thời sự, thu hút sự quan tâm của nhiều người (như ô
nhiễm môi trường, tai nạn giao thông, bạo hành gia đình, bệnh vô cảm…). Đó có
thể là hiện tượng tốt hoặc xấu, đáng khen hoặc đáng chê.

2. Cách
làm:

Để làm được kiểu bài này HS cần phải hiểu hiện tượng đời
sống được đưa ra nghị luận, có thể có ý nghĩa tích cực cũng có thể là tiêu cực,
có hiện tượng vừa tích cực vừa tiêu cực… Do vậy, cần căn cứ vào yêu cầu cụ thể
của đề để gia giảm liều lượng cho hợp lí, tránh làm bài chung chung, không phân
biệt được mặt tích cực hay tiêu cực.

Các nội dung chính:

– Mở bài: Giới thiệu hiện tượng đời sống cần nghị luận.

– Thân bài:

+ LĐ1: Giải thích sơ lược hiện tượng đời sống,làm rõ
những từ ngữ, hình ảnh, khái niệm có trong đề bài (nếu có).

+ LĐ2: Nêu rõ thực trạng, biểu hiện và ảnh hưởng của
hiện tượng đời sống (thực tế vấn đề đang diễn ra như thế nào?có ảnh hưởng ra
sao đối với đời sống? thái độ của xã hội đối với vấn đề như thế nào?). Chú ý
liên hẹ thực tế địa phương để đưa ra những dẫn chứng sắc bén, thuyết phục. Từ
đó, làm nổi bật tính cấp thiết phải giải quyết vấn đề.

+ LĐ3: Chỉ ra nguyên nhân dẫn đến hiện tượng (nguyên
nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan, nguyên nhân do thiên nhiên, do con người…).

+ LĐ4: Đề xuất giải pháp để giải quyết hiện tượng (chú
ý, nguyên nhân nào thì giải pháp đó). Cần chỉ rõ những việc cần làm, cách thức
thực hiện, đòi hỏi phải phối hợp với những lực lượng nào?

+ LĐ5: Rút ra 2 bài học: nhận thức và hành động (Nhận
thức về vấn đề như thế nào? Đúng hay sai? Cần phải làm gì?).

– Kết bài: Cần khái quát lại vấn đề đang nghị luận, bày
tỏ thái độ của bản thân về hiên tượng đời sống.

3. Cấu trúc
bài làm:

 

HIỆN TƯỢNG XẤU

HIỆN TƯỢNG TỐT

MỞ BÀI

Nêu vấn đề

Nêu vấn đề

THÂN BÀI

1. Giải
thích hiện tượng

 

1. Giải
thích hiện tượng

 

2. Nêu biểu
hiện, thực trạng
(diễn ra như thế nào? ở đâu?)

2. Nêu biểu
hiện
(mô
tả lại hiện tượng)

3. Nguyên
nhân
(tại
sao?)

3. Nguyên
nhân
(tại
sao?)

4. Tác hại (tác động tiêu cực gì? Chi
phối như thế nào đến con người, xã hội…)

4. Tác dụng,
ý nghĩa HT

5. Luận bàn (nhìn nhận của xã hội về vấn
đề đó như thế nào? Soi vấn đề ở nhiều góc nhìn, nhìn vấn đề ở tính biện chứng
– lịch sử?…)

5. Luận bàn:
Phê phán
hiện tượng trái ngược

6. Giải pháp (cá nhân?, gia đình, nhà
trường, xã hội)

6. Biện pháp
nhân rộng HT

7. Rút ra
bài học:

– BH nhận thức

– BH hành động

7. Rút ra
bài học:

– BH nhận thức

– BH hành động

KẾT BÀI

Đánh giá chung về hiện tượng

Đánh giá chung về hiện tượng

5. Áp dụng đề:

Đề: Trong một bài viết trên báo, có một bạn trẻ tâm sự:

“Tôi
ưa nói, ưa tranh luận, nhưng khi tôi 17 tuổi nếu tôi giơ tay phát biểu trước
lớp về một vấn đề không đồng ý với quan điểm của thầy cô, tôi bị dòm ngó, tẩy
chay, cười mỉa… Hình như ở Việt Nam, người ta rất khó chấp nhận chuyện người
nhỏ hơn mình “sửa sai” hay tranh luận thẳng thắn với người lớn”.

(Đặng Anh, Sống đúng là chính mình, tuoitre.vn,
ngày 9/9/2013).

Từ góc độ của một
người trẻ, anh/chị hãy viết bài văn ngắn khoảng 600 từ cho biết suy nghĩ của
mình về ý kiến trên.

Gợi ý làm bài:

I. Mở bài: Dẫn dắt àGiới
thiệu hiện tượng cần bàn.

II. Thân bài:

1. Nêu bản
chất của hiện tượng- giải thích hiện tượng

– Ý kiến trên nêu lên
một thực tế khá phổ biến trong xã hội Việt Nam: những người trẻ tuổi có tư duy
độc lập, khi vượt qua rào cản tuổi tác có chủ kiến cá nhân thường phải đối mặt
với cái nhìn và đánh giá mang tính định kiến của cộng đồng xã hội.

– Từ đấy, chính bản
thân người trẻ cũng dễ mang tâm lí kém tự tin, luôn có thái độ rụt rè, thụ động
khi bộc lộ chủ kiến, thậm chí không bao giờ nói ra suy nghĩ của mình trước đám
đông

2. Thực
trạng.

– Hiện tượng được đề
cập là hiện tượng khá phổ biến trong trường học của Việt Nam. Với lối giảng dạy
truyền thống và nếp sống của cộng đồng, học sinh của nước ta khá thụ động trong
học tập, gần như chỉ tiếp thu kiến thức một chiều và ít khi đặt ra câu hỏi hay
đưa ra những suy nghĩ đi ngược lại với điều được dạy. Tuy nhiên, cũng có một số
học sinh dám bộc lộ chủ kiến của mình thì lại ít được gv khuyến khích, thậm chí
còn bị bác bỏ, bị phủ nhận.

Xem thêm :  Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ - ngữ văn lớp 10

– Ở cấp độ xã hội,
hiện tượng này cũng xuất hiện rất nhiều. Người trẻ tuổi thường bị nhìn nhận là
“trẻ người non dạ”, “ngựa non háu đá”, “trứng khôn hơn
vịt”. Vì vậy, đa phần người trẻ, những người giàu sức sống, sự năng động,
sáng tạo trong tư duy và hành động nhất lại trở thành những cỗ máy câm lặng, ít
dám bộc lộ bản thân.

3. Nguyên nhân:

– Xã hội Việt Nam vốn
có truyền thống “kính lão đắc thọ”, người trẻ tuổi phải luôn lắng
nghe và tôn trọng người lớn tuổi hơn để học tập kinh nghiệm sống.

– Do sự ích kỉ, bảo thủ
của người lớn.

– Trong xã hội Á Đông
nói chung và xã hội Việt Nam nói riêng, con người có khuynh hướng sống khép
mình, giấu cái tôi cá nhân đi chứ không chủ động bộc phát cái tôi mạnh mẽ như
người phương Tây. Vì vậy, người Việt Nam có tâm lí ngại nói lên suy nghĩ riêng
trước đám đông, đặc biệt là người trẻ tuổi….

4. Hậu quả:

– Những người trẻ có
tâm huyết trở nên bất mãn, thờ ơ, thiếu tự tin…

– Người trẻ không có
điều kiện thể hiện tài năng và sự cống hiến cho xã hội.

– Thiếu công bằng khi
bình xét, đánh giá khen thưởng …

5. Giải pháp:

– Bộc lộ chủ kiến là
một hành động tích cực, cần được khuyến khích và người trẻ cũng cần có ý thức
về cách thức và thái độ khi thể hiện chủ kiến của mình: thẳng thắn và khiêm
tốn, bộc trực, mạnh mẽ, biết bảo vệ ý kiến riêng nhưng không được kiêu căng,
thất lễ với người khác.

– Về phía những người
lớn tuổi, những bậc tiền nhân và cả cộng đồng cần có cái nhìn rộng mở hơn với
người trẻ, biết lắng nghe, chia sẻ và trao đổi ý kiến với họ; đồng thời đánh
giá và nhìn nhận đúng mức sự đóng góp của người trẻ chứ không nên có thái độ
“dòm ngó, tẩy chay, cười mỉa” làm ảnh hưởng đến tinh thần và tâm lí
của thế hệ trẻ.

– Cần động viên và
khuyến khích thế hệ trẻ biết sống chủ động, sống sáng tạo và bộc lộ mình hơn để
góp phần thay đổi cuộc sống theo hướng tích cực.

6. Bình luận, mở rộng vấn đề:

– Không đồng tình
trước thói quen kì thị của một số người lớn tuổi truớc chính kiến của những
người trẻ tuổi hơn

– Nâng cao trình độ,
suy nghĩ thấu đáo…-> dám bộc lộ chủ kiến của mình đồng thời tôn trọng ý
kiến của người trẻ như mình.

– Cần phải phân biệt
giữa thái độ bộc lộ suy nghĩ của cá nhân để trao đổi, tranh luận với người khác
với thái độ chống đối, tiếu tôn trọng, thậm chí xấc xược, hỗn láo với người lớn
tuổi ở những người trẻ.

III. Kết bài:

– Khẳng định: Vấn đề
tác giả Đặng Anh đặt ra là một vấn đề đáng suy nghĩ và có giá trị không chỉ đối
với người trẻ mà đối với cả cộng đồng.

– Bài học nhận thức
và hành động của bản thân.

Lưu ý: Có những đề nhìn bề ngoài thì là
một phát biểu, một ý kiến, nhận định (có thể ở dạng danh ngôn, châm ngôn…)
nhưng bản chất lại bàn về một hiện tượng đời sống (VD: “Trong thế gian này chúng ta xót xa không chỉ vì lời nói và
hành động của những kẻ xấu mà còn là sự im lặng đáng sợ của những người tốt”).
Khi đó, cần nhận diện đúng đề, sau đó đưa về cấu trúc dạng Nghị luận về một hiện
tượng đời sống.

Dạng 3 : NGHỊ LUẬN VỀ MỘT VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG TÁC PHẨM
HOẶC CÂU CHUYỆN

          Đây
là dạng đề tổng hợp thường dành cho học sinh giỏi, dạng đề này đòi hỏi người viết
phải có kiến thức cả về văn học và đời sống xã hội cũng như kĩ năng phân tích
tác phẩm văn học và kĩ năng phân tích, bình luận các vấn đề xã hội. Đề thường
xuất phát từ một vấn đề xã hội có ý nghĩa trong một tác phẩm văn học hoặc câu
chuyện, yêu cầu học sinh bàn bạc,mở rộng vấn đề, bày tỏ quan điểm và suy nghĩ của
bản thân. Vấn đề xã hội được bàn bạc có thể rút ra từ một tác phẩm văn học
trong chương trình, cũng có thể người viết phải tự rút ra từ câu chuyện.

VD1: Từ nghịch cảnh của nhân vật
Trương Ba trong trích đoạn “Hồn Trương
Ba, da hàng thịt” (Lưu Quang Vũ), hãy bàn về nỗi khổ của những con người
không được sống đúng là mình.

VD2:          

Thượng đế lấy đất sét
nắn ra con người. Khi Ngài nắn xong vẫn còn thừa ra một mẩu đất:
– Còn nặn thêm cho mày gì nữa, con người? – Ngài hỏi.

Con người suy nghĩ một
lúc thấy mình đã đầy đủ tay, chân, đầu, rồi nói:
– Xin Ngài nắn cho con hạnh phúc.

Thượng đế đủ biết,
biết hết nhưng cũng không hiểu được hạnh phúc là gì. Ngài trao cục
đất cho con người và nói:

– Này, tự đi và nắn lấy cho mình hạnh phúc.”

Suy nghĩ của anh/chị về câu chuyện trên.

Để làm được kiểu dạng này, chúng
ta cần tiến hành theo hai bước sau:

– Trước hết, cần phân tích tác phẩm
để làm rõ vấn đề xã hội cần bàn luận cùng với các khía cạnh, các phương diện biểu
hiện của nó.

– Sau đó, đi sâu bàn về vấn đề xã
hội đã rút ra trong tác phẩm.

          Cần
lưu ý, dạng bài này rất dễ lẫn với dạng bài nghị luận văn học vì buộc phải có
khâu phân tích tác phẩm để xác định vấn đề cần nghị luận. Để tránh nhầm lẫn, cần
xác định và phân biệt rõ sự khác biệt về mục đích và cách thức tiến hành. Mục
đích của nghị luận văn học là bàn bạc, phân tích, để đánh giá giá trị nội dung
và nghệ thuật của tác phẩm văn học, còn mục đích của nghị luận xã hội là phân
tích, đánh giá để đưa ra ý kiến, quan điểm về vấn đề xã hội được đặt ra ở văn bản
tác phẩm đó. Vì thế, khi làm bài nghị luận văn học, cần cắt nghĩa, bình giá cái
hay, vẻ đẹp của các yếu tố của văn bản như ngôn ngữ, hình tượng về hai phương
diện nội dung và nghệ thuật, còn khi làm bài nghị luận xã hội lại chỉ cần chú ý
tới mặt nội dung. Hơn nữa, với nghị luận văn học, việc phân tích tác phẩm văn học
là mục đích, còn trong nghị luận xã hội nó chỉ là phương tiện, là thao tác đầu
tiên khởi đầu cho cả một quá trình sau đó.

1. Dàn ý gợi ý:

a. Mở bài:

– Dẫn dắt vấn đề, giới thiệu câu
chuyện trong đề bài

– Nêu vấn đề cần nghị luận

b. Thân bài:

* Bước 1: Phân tích,hoặc nêu vắn
tắt nội dung câu chuyện để rút ra ý nghĩa vấn đề

– Nhấn mạnh, khẳng định ý nghĩa nội
dung từ văn bản văn học đó.

– Từ đó, khái quát chính xác vấn
đề xã hội cần nghị luận

* Bước 2: Thực hiện các thao tác
nghị luận (tùy thuộc vào vấn đề nghị luận là một tư tưởng, đạo lí hay một hiện
tượng đời sống HS áp dụng phương pháp làm bài cụ thể).

– Giải thích vấn đề (nếu cần thiết)

– Phân tích – chứng minh:

+ Đối với vấn đề xã hội là vấn đề
tư tưởng, đạo lí : Làm rõ các biểu hiện của tư tưởng, đạo lí ở những phương diện
khác nhau trong đời sống…; dùng thực tế xã hội để chứng minh. Đặt câu hỏi để
xác định ý: Như thế nào? Ở đâu? Bao giờ? Người thật việc thật nào?….

+ Đối với vấn đề xã hội là một hiện
tượng đời sống: Xác định đó là hiện tượng tích cực hay tiêu cực, mô tả những biểu
hiện của hiện tượng đó….

– Bình luận: Bình luận, chỉ ra tầm
quan trọng của vấn đề xã hội hiện nay

+ Đánh giá:

Quan niệm, tư tưởng ấy đúng đắn,
sâu sắc như thế nào? Ý nghĩa đối với tâm hồn, nhân cách con người? (tư tưởng, đạo
lí)

Hiện tượng ấy có ảnh hưởng như thế
nào đối với cuộc sống con người ?

(Cần thể hiện thái độ đồng tình,
biểu dương, trân trọng trước vấn đề xã hội có ý nghĩa tích cực; phê phán những
biểu hiện sai trái, suy nghĩ, quan niệm lệch lạc so với quan niệm, tư tưởng, hiện
tượng được nghị luận)

+ Mở rộng: Xem xét vấn đề ở những
phương diện, góc độ khác nhau (phương pháp, góc nhìn, tính hai mặt của vấn đề
nghị luận…)

* Bước 3: Rút ra bài học cho bản
thân

– Về nhận thức: Vấn đề xã hội đó
giúp ta hiểu sâu sắc về điều gì? Rút ra được điều gì có ý nghĩa?

– Về hành động: Xác định hành động
bản thân phải làm gì? Việc làm cụ thể, thiết thực.

c. Kết bài:

2. Đề:

“Những giọt sương lặn vào lá cỏ

Qua nắng gắt, qua bão tố

Vẫn giữ lại cái mát lành đầy sức mạnh

Vẫn long lanh, bình thản trước vầng dương…”

                             (Thanh
Thảo, Sự bùng nổ của mùa xuân)

Hãy phát biểu những suy nghĩ của
anh/chị được gợi ra từ hiện tượng trên.

Gợi ý giải đề:

Đây là kiểu đề mở, từ một hiện tượng
thiên nhiên, thí sinh cần mở rộng liên tưởng đến những vấn đề về cuộc sống, con
người… Có thể trình bày theo nhiều cách nhưng cần đảm bảo các ý chính sau:

– Cảm nhận về hiện tượng thiên
nhiên được gợi mở từ đoạn thơ: Giọt sương nhỏ bé, rất đỗi mỏng manh, khiêm nhường
nhưng lại tiềm ẩn sức sống bền bỉ, kiên cường, mãnh liệt.

– Những gợi mở,liên tưởng từ hiện
tượng thiên nhiên: Giữa cuộc đời đầy chông gai, sóng gió, con người vẫn tiềm
tàng một sức sống mãnh liệt, vẫn tha thiết yêu đời, vẫn cháy bỏng niềm tin yêu
và hy vọng. Giữa vô vàn khó khăn, khốc liệt của cuộc sống, của hoàn cảnh, cái đẹp
vẫn đơm hoa, sự sống vẫn nảy mầm.

– Bày tỏ suy nghĩ của bản thân:

+ Những gợi mở từ hiện tượng
thiên nhiên đưa đến cho chúng ta suy ngẫm sâu sắc về cuộc sống, về con người, về
cái đẹp… Cuộc sống luôn chứa đựng những điều bất ngờ,lý thú, luôn ẩn chứa vẻ đẹp
bình dị mà thanh cao. Tâm hồn con người,cái đẹp lên hương từ cuộc sống chính là
hạt ngọc lung linh, ngần sáng biết bao thánh thiện mà mỗi một chúng ta cẩn biết
nâng niu.

+ Trong mọi hoàn cảnh dù vất vả,
khó khăn, dù gian nan thử thách cũng không nên buông xuôi, chán nản. Hãy nuôi
dưỡng niềm tin, hy vọng và cuộc sống, con người.

Xem thêm :  Giá niềng răng trong suốt bao nhiêu tiền? bảng chi phí rẻ & mới 2021

Dạng 4 : DẠNG ĐỀ KẾT HỢP HAI MẶT TỐT – XẤU TRONG MỘT VẤN
ĐỀ

1. Dàn ý gợi ý:

Phần lớn những đề thuộc dạng này
là đề nghị luận về một tư tưởng, đạo lý cũng có thể bàn về hiện tượng đời sống,
cũng có khi là từ một câu chuyện. Ví dụ:

– “Ngưỡng một thần tượng là một nét đẹp văn hóa, mê muội thần tượng là một
thảm họa” (bàn về một hiện tượng đời sống)

– “Kẻ cơ hội thì nôn nóng tạo ra thành tích, người chân chính lại kiên nhẫn
lập nên thành tựu” (bàn về một tư tưởng đạo lí).

Tuy nhiên, vấn đề được cho trong
đề thường có một mặt phải và một mặt trái (tốt – xấu). Khi làm bài ta nên bám
theo cấu trúc sau:

Mở bài

Giới thiệu vấn đề

Thân bài

1. Giải
thích
: Giải
thích 2 vế, giải thích cả câu

2. Chứng
minh, bình luận
:

a. Trình bày ý nghĩa, tác dụng của mặt tốt (thường
là vế 1).

b. Trình bày tác hại của mặt xấu (thường là vế 2)

c. Đánh giá, luận bàn vấn đề, đề xuất quan điểm,
cách nhìn đúng đắn

3. Rút ra
bài học
:

– Nhận thức

– Hành động

Kết bài

Khẳng định vấn đề

2. Áp dụng đề:

Đề:

“Ngưỡng mộ thần tượng là một nét đẹp văn hóa, nhưng mê muội
thần tượng là một thảm họa”.

 Hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 600 từ)
trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý kiến trên.

Gợi ý làm bài:

I. Mở bài: Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề nghị
luận.

II. Thân bài:

1. Giải thích ý kiến:

– “Ngưỡng mộ thần tượng” là sự
tôn kính, mến phục nồng nhiệt dành cho những đối tượng được xem là hình mẫu lí
tưởng hoặc có quyền năng đặc biệt, có sức cuốn hút mạnh mẽ đối với cá nhân hay
cộng đồng.

– “Mê muội thần tượng” là sự say
mê, tôn sùng một cách mù quáng, thiếu tỉnh táo trước thần tượng.

® Về nội dung, ý kiến này đề cập đến tính hai mặt của việc say mê thần tượng:
nếu ngưỡng mộ đúng mức là tích cực, thì ngưỡng mộ quá mức là tiêu cực và có thể
còn gây ra hậu quả khôn lường.

2. Bàn luận ý kiến:

– Ngưỡng mộ thần tượng là một nét
đẹp văn hóa:

+ Ngưỡng mộ thần tượng thể hiện
nhu cầu văn hóa cao của con người: nhu cầu được sống trong những tình cảm cao cả,
nồng nhiệt; nhu cầu được hướng tới, vươn tới những tầm cao, những đỉnh cao sáng
giá của đời sống.

+ Ngưỡng mộ thần tượng là một ứng
xử văn hóa, biểu hiện ở các phương diện: thái độ trân trọng mến phục; hành động
tôn vinh cổ vũ; ngôn ngữ ca ngợi tán dương.

– Mê muội thần tượng là một thảm
họa:

+ Mê muội thần tượng là trạng
thái mù quáng trong nhận thức, thái quá trong tình cảm, không còn khả năng suy
xét, phân biệt đúng sai, lẫn lộn về giá trị; mê muội thần tượng còn dẫn đến
hành động sai lầm quá khích, gây ra những hậu quả tệ hại cho bản thân và xã hội.

+ Việc mù quáng chạy theo thần tượng
hay khuyếch trương thần tượng quá mức đều là biểu hiện của sự mê muội thần tượng,
đều là những thái độ và ứng xử thiếu lành mạnh, thậm chí thiếu văn hóa, có thể
gây ra những hậu quả khôn lường.

3. Bình luận, mở rộng vấn đề:

– Ý kiến trên hoàn toàn đúng.

– Cần nhận thức đúng đắn về việc
ngưỡng mộ thần tượng và lường được những hậu quả của sự mê muội để có thái độ
và cách ứng xử phù hợp, làm cho tâm hồn phong phú hơn, nâng tầm văn hóa cho bản
thân, từ đó phấn đấu vươn tới những tầm cao của đời sống.

– Biết chế ngự những cảm xúc say
mê thái quá trước thần tượng, không chạy theo thần tượng một cách mù quáng; phê
phán mọi biểu hiện mê muội thần tượng trong cuộc sống hàng ngày, trước hết là
trong học đường.

III. Kết bài:

– Khẳng định lại vấn đề.

– Bài học nhận thức và hành động
của bản thân.

Dạng 5. DẠNG ĐỀ MANG TÍNH CHẤT ĐỐI THOẠI, BỘC LỘ SUY
NGHĨ RIÊNG VỀ VẤN ĐỀ ĐƯỢC ĐẶT RA

1. Dàn bài gợi ý:

          Đây
là dạng đề mới nhất thường được lựa chọn trong một vài năm gần đây. Dạng đề này
lại thường thiên về bộc lộ suy nghĩ, quan điểm về một vấn đề thiên về hiện tượng
đời sống. Cấu trúc làm bài có thể cụ thể hóa như sau:

Mở bài

Giới thiệu vấn đề

Thân bài

1. Giải
thích
vấn
đề

 

2. Trao đổi,
bàn luận, đối thoại
(phần này phụ thuộc vào nhận thức và sự hiểu biết của bản
thân, nhận thức và đánh giá vấn đề đó đúng/sai,phải/trái, đồng tình/không đồng
tình…)

 

3. Trình bày
quan điểm sống của bản thân
(gần với bài học nhận thức và hành động).

Kết bài

Đánh giá chung về vấn đề

2. Áp dụng đề:

Đề:

          Đi dọc
đất nước với tâm nguyện tìm hiểu nguồn cội bằng trải nghiệm của chính mình,
chàng trai Việt kiều Tran Hung John, có một nhận xét:

“Phần nhiều người
Việt Nam có tính cách thụ động, là những người đi theo chứ không phải là người
tiên phong. Nếu có ai đó đi trước và thử trước, tôi sẽ theo sau chứ không bao
giờ là người dẫn đường. Áp lực xã hội khiến bạn phải đi theo con đường đã được
vẽ sẵn” (Jonh đi tìm Hùng, NXB Kim Đồng, 2013,tr113)

Anh/chị có đồng tính với ý kiến trên không? Hãy trao đổi
với Tran Hung Jonh và bày tỏ quan điểm sống của chính mình?

Gợi ý giải đề:

Phần Thân bài cần:

– Giải thích ý kiến:

+ Thụ động là chịu sự chi phối, chỉ biết làm theo,
nghe theo người khác mà thiếu chủ động, sáng tạo.

+ Ý kiến muốn đề cập đến tính cách thụ động, được xem
là tính cách của phần nhiều người Việt Nam, trước hết là thụ động trong việc
lựa chọn, dấn thân, mở lối cho cuộc sống của mình; nêu một vài biểu hiện,
nguyên nhân của tính cách này.

– Trao đổi:

Thí sinh có thể đồng tình, không đồng tình hoặc chỉ đồng
tình phần nào với ý kiến của Tran Hung Jonh. Dù lựa chọn cách nào thì khi trao
đổi cũng phải có lí lẽ, căn cứ xác đáng và thái độ luận bàn một cách nghiêm
túc, thiện chí.

Đề:

Nhìn lại vốn văn hóa dân tộc, nhà nghiên cứu Trần Đình
Hượu có nêu một nhận xét về lối sống của người Việt Nam truyền thống là:

“Không ca tụng
trí tuệ mà ca tụng sự khôn khéo. Khôn khéo là ăn đi trước, lội nước theo sau,
biết thủ thế, giữ mình, gỡ được tình thế khó khăn” (Theo Ngữ văn 12, Tập 2,
NXBGDVN, 2013, tr160-161).

Từ nhận thức về mặt tích cực và tiêu cực của lối sống
trên, anh/chị hãy bày tỏ quan điểm sống của chính mình.

Gợi ý giải đề

Phần Thân bài, cần đảm bảo:

– Giải thích ý kiến:

+ “Trí tuệ” là khả năng nhận thức, suy xét bằng bộ óc,
“khôn khéo” là khôn ngoan, khéo léo trong ứng xử.

+ Ý kiến đã nêu được một nét đáng lưu ý về lối sống của
người Việt Nam
truyền thống là ít đề cao trí tuệ mà đề cao sự khôn khéo, một dạng trí khôn của
đời sống, đồng thời chỉ ra một số biểu hiện của lối sống khôn khéo đó.

– Phân tích, chứng minh, binh luận:

+ Tích cực:

· Tạo ra lối ứng xử linh hoạt
trong đời sống hàng ngày giúp con người có thể an thân hưởng lợi, giữ mình
thoát hiểm, tránh cách mối quan hệ phức tạp.

· Khiến cho mỗi cá nhân có lối
sống thiết thực, tùy cơ ứng biến để tồn tại trong cộng đồng.

+ Tiêu cực:

· Mặt tiêu cực của việc không
đề cao trí tuệ là ít coi trọng những nỗ lực khám phá, chinh phục, sáng chế nhằm
hướng tới những đỉnh cao trong sản xuất, khoa học, nghệ thuật; chưa tôn trọng
thành quả của trí tuệ, tri thức và sáng tạo, dẫn đến sự trì trệ, kém phát triển
mọi mặt của đời sống xã hội.

 

                                                                                                                                                                                                                            Vũ Huy Lân

 

Họ tên

no image

no image

Tiêu đề

no image

Nội dung

no image

Mã kiểm tra

no image

Tin khác

  • CHI TIẾT NGHỆ THUẬT TRONG TÁC PHẨM TỰ SỰ

  • Chuyên đề: Rèn luyện nâng cao kĩ năng kĩ năng làm bài văn nghị luận xã hội cho học sinh giỏi (Nguyễn Thị Hạnh)

  • Rèn kĩ năng lựa chọn ngữ liệu phân tích trong kiểu bài lí luận văn học không giới hạn ngữ liệu chứng minh cho học sinh chuyên văn (Lê Thị La)

  • Kiểu nhân vật tự ý thức trong trang văn của Nam Cao và Nguyễn Minh Châu (Lê Thị La)

  • Tiếng nói tri âm trong Độc Tiểu Thanh kí (Nguyễn Du), Kính gửi cụ Nguyễn Du (Tố Hữu) và Đàn ghi ta của Lorca (Thanh Thảo) – Bùi Thị Phương Thúy –

  • Chữa lỗi trong bài văn nghị luận xã hội cho học sinh (Bùi thị Phương Thúy)

  • Đặc sắc nghệ thuật và cá tính sáng tạo của thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám 1945 (Phạm Minh Huệ)

  • Chuyên đề: Kĩ năng bồi dưỡng học sinh giỏi với kiểu bài lí luận văn học (Nguyễn Thị Hạnh)

  • Văn xuôi lãng mạn 1930 – 1945 với hai tác giả tiêu biểu trong chương trình THPT: Thạch Lam và Nguyễn Tuân (Nguyễn Thị Vân)

  • Đặc sắc truyện ngắn Nam Cao qua tác phẩm Chí Phèo (Trương Văn Quỳnh)

1

 2 3 4 5 


Mẹo hay làm đoạn văn nghị luận xã hội 200 từ


Mẹo hay làm đoạn văn nghị luận xã hội 200 từ Luyện thi môn Ngữ Văn THPT QG với thầy Lượng:
https://moon.vn/khoahoc/protnangcaokienthuccacchudeonluyenthithptquocgia20222047
Luyện thi THPT Quốc gia các môn Toán Lý Hóa Sinh Anh Văn và TOEIC IELTS TOÁN CAO CẤP.
Chi tiết xem tại:
▶ Website: http://www.moon.vn
▶ Fanpage MoonTV: https://www.facebook.com/3w.moon.vn/
▶ HOTLINE: 02432 99 98 98
▶ Bản quyền nội dung thuộc sở hữu của Moon.vn
▶ THEO DÕI KÊNH ĐỂ CẬP NHẬT NHIỀU VIDEO: http://goo.gl/f4JJp4

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Giáo Dục

Related Articles

Back to top button