Tổng Hợp

Nghiên cứu năng lực cạnh tranh điểm đến du lịch Đà Lạt

DƯƠNG NGỌC LANG (Trường Đại học Yersin Đà Lạt)

TÓM TẮT:

Trong xu hướng có nhiều nơi đến du lịch mới nổi lên thì tìm hiểu năng lực đối đầu là một trong những công việc thiết yếu giúp nơi đến du lịch Đà Lạt xác nhận được vị trí của mình so với các đối thủ đối đầu để quy hoạch và có những hướng đi cho thích hợp. Trên nền tảng các tiêu chuẩn nhận xét năng lực đối đầu nơi đến du lịch của Metin Kozak và Dwyer & Kim, tác giả đã phối hợp với 4 phương pháp để xác nhận năng lực đối đầu nơi đến du lịch Đà Lạt. Đề tài đã tiến hành tổng hợp, phân tích và nhận xét khả năng thỏa mãn những mong đợi, kì vọng của Đà Lạt với khách du lịch. Trên nền tảng phân tích tình trạng năng lực đối đầu của nơi đến du lịch Đà Lạt, đề tài đã đề xuất 5 nhóm phương án làm định hướng cho nơi đến du lịch Đà Lạt, để từ đó nâng cao khả năng đối đầu của mình.

Từ khóa: Năng lực đối đầu, nơi đến du lịch, năng lực đối đầu nơi đến, du lịch Đà Lạt.

1. MỞ ĐẦU

Trong những năm qua, cùng với xu thế phát triển chung của du lịch toàn cầu và trong nước, du lịch Đà Lạt – Lâm Đồng đã tăng trưởng khá nhanh, trở thành nghề kinh tế trọng yếu, góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, tạo công ăn việc làm, cải tổ kết cấu hạ tầng và nhiều ngành nghề trọng yếu khác. Cùng với sự phát triển của du lịch Đà Lạt cũng có nhiều điểm du lịch khác được đầu tư phát triển khá mạnh, dần tạo được thương hiệu trên thị trường du lịch trong nước, quốc tế và trở thành đối thủ đối đầu trực tiếp với nơi đến du lịch Đà Lạt, từ đó tạo ra những khó khăn và thách thức nhất định cho du lịch địa phương.

Chính vì thế, đề tài được thực hiện với mục đích tìm hiểu năng lực đối đầu của Đà Lạt so với các nơi đến du lịch tương đồng khác trong nước, nắm được những yếu tố nội tại của du lịch Đà Lạt, từ đó mang ra những phương án góp phần nâng cao năng lực đối đầu của nơi đến du lịch Đà Lạt trước sự phát triển và đầu tư mạnh mẽ của nhiều nơi đến du lịch khác trong nước.

Với việc tìm hiểu năng lực đối đầu nơi đến du lịch Đà Lạt sẽ khắc phục các nhiệm vụ chính sau: nhận xét theo định lượng để phân tích tình trạng, các yếu tố nội sinh tác động đến năng lực đối đầu của nơi đến du lịch Đà Lạt; Nhận xét theo định tính để nắm bắt cảm nhận của khách tham quan so với du lịch Đà Lạt; Đề xuất các phương án nhằm góp phần nâng cao năng lực đối đầu của nơi đến du lịch Đà Lạt.

2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng tìm hiểu

Đối tượng tìm hiểu chính là các số liệu về du lịch từ năm 2016 đến năm 2019 của Đà Lạt và đối thủ đối đầu tương đồng trong nước (lấy trường hợp Lào Cai). Ngoài ra, tác giả còn thăm dò khách du lịch đến Đà Lạt, các Chuyên Viên du lịch, các nhà cung cấp kinh doanh du lịch trên địa bàn tp Đà Lạt và các tỉnh thành lân cận. Nội dung chính đa số tiếp cận theo 2 hướng: nhận xét định lượng và định tính theo lý thuyết của Metin Kozak và các chỉ số của Dwyer & Kim.

2.2. Kỹ thuật nhận xét năng lực đối đầu nơi đến

– Nhận xét trên nền tảng so sánh với đối thủ đối đầu: Tìm hiểu đã tập trung với nơi đến du lịch Lào Cai, nơi có nhiều sản phẩm tương đồng với Đà Lạt, trên nền tảng so sánh theo các tiêu chuẩn định lượng của Metin Kozak, bao gồm: số lượng khách du lịch đến, thu nhập du lịch/năm, mức tiêu pha của khách du lịch và thời gian lưu lại của khách du lịch.

– Nhận xét theo phương diện phía cung: Căn cứ vào mô hình tích hợp (Dwyer & Kim, 2003), 75 chỉ số đối đầu được xây dựng thành 75 thắc mắc, ứng dụng thước đo Likert cho toàn bộ 75 chỉ số. Cụ thể như sau: nguồn lực thừa hưởng (chỉ sử dụng 10 chỉ số), riêng khu bảo tồn thiên nhiên, Lâm Đồng không có nên ngoại trừ yếu tố này; Nguồn lực sáng tạo (17 chỉ số); Nguồn lực và nhân tố trợ giúp (chỉ sử dụng 7 chỉ số); Quản lý nơi đến (chỉ sử dụng 37 chỉ số); Điều kiện về cầu (4 chỉ số). [17,49]

– Nhận xét theo phương diện phía cầu: Dựa vào các tiêu chuẩn định tính của Metin Kozak để xây dựng bảng hỏi: dấu hiệu kinh tế – xã hội; nhân khẩu học của khách du lịch; mức độ ưng ý, không ưng ý, phàn nàn của khách tham quan; nhận xét của các doanh nghiệp lữ hành, các trung gian môi giới; chất lượng nguồn nhân lực du lịch; chất lượng các tiện nghi.

3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1. Các phương pháp thu thập số liệu

– Thu thập số liệu thứ cấp: Giải trình kết quả hoạt động của du lịch Lâm Đồng, Lào Cai từ năm 2016 đến năm 2019.

– Thu thập số liệu sơ cấp:

+ Phương pháp điều tra bảng hỏi: Phương pháp được ứng dụng vào đề tài nhằm điều tra các yếu tố khách quan từ khách tham quan. Với sai số là 5%, kết quả tính cỡ mẫu là 385, tác giả đã tiến hành phát ra 350 phiếu, số phiếu thu vào được 312 phiếu. Sau khoảng thời gian sàng lọc, cuối cùng, số phiếu được đồng ý để mang vào xử lý là 299 phiếu.

+ Phương pháp phỏng vấn sâu và phương pháp Chuyên Viên. Đối tượng phỏng vấn gồm: 1 Chuyên Viên làm việc tại Sở Văn hóa – Thể thao – Du lịch Lâm Đồng, 2 Chuyên Viên là giám đốc 2 doanh nghiệp lữ hành tại Đà Lạt, 1 Chuyên Viên là giáo viên du lịch, 5 điều hành, hướng dẫn viên của các doanh nghiệp du lịch tại tp Hồ Chí Minh, Nha Trang và Hà Nội.

3.2. Các phương pháp, công cụ thống kê, xử lý số liệu

–  Phương pháp phân tích, so sánh: Tìm hiểu tiến hành so sánh, đối chiếu với các chỉ số như: số lượng khách du lịch đến, thu nhập du lịch/năm, mức tiêu pha của khách du lịch, thời gian lưu lại của khách du lịch so với các nơi đến được chọn để so sánh.

– Công cụ: Tìm hiểu sử dụng công cụ NPS (Net Promoter Score) để đo lường sự ưng ý của khách hàng. NPS được tính theo công thức: NPS = % những người rất yêu thích sản phẩm, dịch vụ – % những người đang xem xét hoặc không ưng ý về sản phẩm, dịch vụ. Tìm hiểu chỉ lấy con số đơn thuần, không mang % vào quá trình tính toán. Kết quả âm thì đây là một con số báo động so với các nơi đến du lịch. Trái lại, số NPS càng cao thì đây là tín hiệu càng tốt cho các điểm đến.

4. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

4.1. Nhận xét trên nền tảng so sánh với đối thủ đối đầu

Kết quả tổng hợp từ các số liệu du lịch của Đà Lạt và Lào Cai như sau: 

Bảng 1. Tổng lượt khách, thu nhập, mức tiêu pha và số ngày lưu trú

trung bình của khách tham quan đến Đà Lạt, Lào Cai giai đoạn 2016 – 2019

Nguồn: [6], [7]

– Về tổng lượt khách: Tổng lượt khách đến Đà Lạt và Lào Cai đều tăng dần qua các năm và con số này ở Đà Lạt cao hơn đáng kể. Nhưng từ tỉ lệ Đà Lạt cao hơn 1,96 lần vào năm 2016 đến giảm xuống còn 1,38 lần vào năm 2019, cho thấy Lào Cai đang dần được thu hẹp khoảng cách với Đà Lạt và trong tương lai. Nếu Lào Cai giữ vận tốc tăng trưởng điều độ như vậy, có thể sẽ vượt Đà Lạt. Yếu tố này đặt ra cho Đà Lạt cần tìm hiểu để thay đổi, thu hút khách nhiều hơn nữa, đảm bảo là nơi đến du lịch núi số 1 Việt Nam ở hiện tại và trong tương lai.

– Về tổng lượt khách quốc tế: Mặc dù tổng lượt khách của Đà Lạt cao hơn so với Lào Cai (gấp 1,38 lần năm 2019) nhưng tổng lượt khách quốc tế đến Đà Lạt lại khá thấp. Sở dĩ có kết quả như vậy là do sản phẩm du lịch, kế hoạch truyền bá của Đà Lạt chưa tạo được sức hút nhất định. Khi Lào Cai đa số khai thác các sản phẩm từ du lịch cộng đồng, những nét văn hóa đặc trưng của cư dân địa phương thì du lịch Đà Lạt đa số khai thác các yếu tố từ thiên nhiên, thiết kế, những điểm tương đồng khá giống với các nước phương Tây.

Xem Thêm :   Kinh nghiệm du lịch phan rang

– Thu nhập từ hoạt động du lịch, tiêu pha của khách du lịch: Trong giai đoạn 2016 – 2017, thu nhập từ hoạt động du lịch của cả Đà Lạt và Lào Cai đều tăng. Tuy nhiên, nếu như Đà Lạt tăng nhẹ (9.55%) thì Lào Cai lại có sự tăng trưởng khá mạnh (47,43%) và thu hẹp khoảng cách với Đà Lạt. Xuất phát điểm từ 2018, thu nhập du lịch của Lào Cai vượt và dần bỏ xa Đà Lạt. Mặc dù tổng lượt khách của Đà Lạt cao hơn Lào Cai, nhưng thu nhập lại khá khiêm tốn so với nơi đến này. Kết quả tìm hiểu cho thấy, Lào Cai đã đẩy mạnh phát triển du lịch theo hướng phong phú hóa và nâng cao chất lượng các sản phẩm du lịch. Lào Cai đã tập trung vào phát triển các sản phẩm du lịch dịch vụ thượng hạng, trong đó quần thể khu du lịch dịch vụ và vui chơi tiêu khiển cáp treo Fansipan – Sa Pa là nơi đến mê hoặc trong khu vực Tây Bắc hiện tại. Trong khi đó, hàng năm, mặc dù đều xuất hiện nhiều điểm du lịch mới tại Đà Lạt nhưng đa số với quy mô nhỏ lẻ và hộ gia đình, chưa tạo được lực hút mạnh so với khách du lịch. Ngoài ra, lượng khách Trung Quốc – đối tượng có khả năng tiêu pha cao nhất toàn cầu hiện tại (cao hơn 1,9 lần so với nước cao thứ nhì là Mỹ vào năm 2017), cũng góp phần làm cho thu nhập du lịch của Lào Cai cao hơn hẳn Đà Lạt.

Mức tiêu pha của khách du lịch tại Lào Cai cao hơn 2 lần so với Đà Lạt, có sự chênh lệch như vậy 1 phần do giá cả các dịch vụ nói chung tại Lào Cai cao hơn, các điểm tham quan ở Lào Cai có giá vé cao hơn. Trong khi đó, Đà Lạt không có các sản phẩm sắm sửa chủ đạo, các sản phẩm đa số dân dã, kéo theo mức tiêu pha của khách tham quan cũng dừng lại ở mức khá thấp.

– Số ngày lưu trú trung bình của cả Đà Lạt từ năm 2016 đến năm 2019 lần lượt là: 2,5; 2,2; 2,2 và 2,1 ngày, trong khi đó con số này tại Lào Cai lần lượt là: 2,5; 1,8; 2.1; 2.1. Các số liệu cho thấy cả Đà Lạt và Lào Cai đều giảm và dần duy trì ở mức ổn định vào những năm sau đó. Lý giải cho điều này, ông Hoàng Ngọc Huy, Sở Văn hóa – Thể thao, Du lịch Lâm Đồng cho rằng: do xu hướng 1 chuyến du ngoạn nhiều nơi đến ngày càng thông dụng, số ngày lưu trú trung bình sẽ chia đều cho các địa phương khác trong tuyến du lịch thay vì chỉ lưu trú tại 1 địa phương. Do vậy, việc tăng thời gian lưu trú trung bình của khách khá khó, vấn đề là làm sao để tăng trưởng mức tiêu pha du lịch của khách tham quan trong mỗi chuyến du ngoạn.

4.2. Nhận xét theo phương diện phía cung

  • Nhận xét nguồn lực thừa hưởng

Kết quả điều tra cho thấy toàn bộ các nhân tố trong nhóm này đều có điểm số trên trung bình. Trong số đó, nhân tố phong cảnh thiên nhiên mê hoặc chiếm điểm số cao nhất (3,97 điểm), tiếp theo là yếu tố vườn quốc gia (3,76 điểm) và vệ sinh sạch sẽ (3,68 điểm). Điều này cho thấy, phong cảnh thiên nhiên vẫn chiếm ưu thế lớn nhất trong việc thu hút khách du lịch của Đà Lạt. Nhân tố vườn quốc gia chiếm vị trí thứ 2, vệ sinh sạch sẽ và khí hậu lần lượt đứng thứ 3 và thứ 4. Với khí hậu, mặc dù là một trong những yếu tố chính thu hút khách tham quan nội địa đến với Đà Lạt nhưng lại nằm ở vị trí thứ 4, điều này là do khí hậu Đà Lạt chia thành 2 mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô, mùa mưa kéo dài từ tháng 4 đến tháng 11 hàng năm, mà phần lớn các hoạt động tham quan của Đà Lạt đều được tiến hành ngoài trời. Vì thế, rất khó tổ chức tham quan cho khách du lịch vào mùa mưa.

Văn nghệ truyền thống có số điểm thấp nhất (2,71 điểm), đây chính là một trong những yếu tố mà du lịch địa phương cần tìm hiểu phát triển để góp phần duy trì năng lực đối đầu của tp.

  • Nhận xét nguồn lực sáng tạo

Kết quả tổng hợp cho thấy: thông tin và hướng dẫn du lịch chiếm điểm số cao nhất (3,87 điểm), tiếp theo là khả năng tiếp cận khu vực thiên nhiên của khách tham quan chiếm vị trí thứ 2 (3,76 điểm), lễ hội/sự kiện đặc biệt (3,61 điểm) và đây cũng chính là những yếu tố trong thời gian qua địa phương rất lưu ý và đầu tư mạnh mẽ. Bốn yếu tố có số điểm dưới trung bình lần lượt là: các hoạt động dưới nước (2,16 điểm), các phương tiện tiêu khiển (2,34 điểm), tính chất/tính phong phú của hoạt động tiêu khiển (2,37 điểm), các phương tiện thể thao (2,42 điểm). Đây chính là những nhược điểm nhất của Đà Lạt hiện tại, rất cần được lưu ý và cải tổ.

  • Nhận xét nguồn lực và các nhân tố trợ giúp

Toàn bộ các chỉ số của nhóm này đều có điểm số trên trung bình. Chỉ số an toàn/an ninh cho khách du lịch có số điểm cao nhất. Đây chính là yếu tố mà khách tham quan ít phàn nàn nhất với các doanh nghiệp du lịch. Chỉ số thể chế tài chính và phương tiện đổi tiền chiếm số điểm thấp nhất trong nhóm này. Hiện, Đà Lạt có rất nhiều ngân hàng tập trung tại khu vực trung tâm tp. Tuy nhiên, khách tham quan khi cần đổi tiền hay cần tư vấn về tiền tệ gặp rất nhiều khó khăn khi khả năng giao tiếp bằng tiếng Anh của đội ngũ giao dịch viên ngân hàng chưa tốt.

  • Nhận xét quản trị nơi đến

Kết quả tổng hợp cho thấy sự phong phú/chất lượng của chương trình huấn luyện du lịch có điểm số cao nhất (3,61 điểm), giao tiếp giữa khách du lịch và người dân địa phương có điểm số thứ 2 (3,47 điểm). Bốn yếu tố có điểm số dưới trung bình là: sử dụng công nghệ thông tin của các doanh nghiệp du lịch (2,39 điểm), phát triển du lịch thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch (2,42 điểm), lãnh đạo/cam kết của chính phủ so với du lịch (2,47 điểm) và chất lượng tỷ phú hoạt động kinh doanh du lịch (2,47 điểm). Trên thực tiễn, nhiều khách sạn vẫn chưa khai thác triệt để công nghệ thông tin trong hoạt động kinh doanh, quản lý khách sạn theo kiểu thủ công sổ sách. Quá trình khai thác các tài nguyên du lịch còn trùng lặp, chưa giải quyết được nhu cầu tham quan phong phú phong phú của khách tham quan. Các dự án du lịch hiện tại trên địa bàn tp chưa được quan tâm đúng mức. Nhiều nhà đầu tư không thấu hiểu về ngành nghề du lịch nên trong quá trình kinh doanh còn vi phạm các phép tắc vững chắc và chuyên nghiệp của nghề.

  • Nhận xét điều kiện về cầu

Nhìn chung, chỉ số nhận xét theo điều kiện về cầu không cao, hình ảnh nơi đến cao nhất với 3,18 điểm. So với khách tham quan trong nước, Đà Lạt là một trong những nơi đến được nhiều người nhắc tới khi nói về điểm nghỉ mát của Việt Nam nhưng lại được ít khách du lịch quốc tế nhắc tới. Chỉ số nhận thấy quốc tế về các sản phẩm của nơi đến lại nằm dưới mức trung bình (2,31 điểm). Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến lượng khách quốc tế đến Đà Lạt khá thấp so với những địa phương có hoạt động du lịch phát triển hiện tại trên cả nước.

4.3. Nhận xét theo phương diện phía cầu

4.3.1. Dấu hiệu kinh tế – xã hội

Phần lớn thu nhập của khách đến Đà Lạt ở mức trung bình – khá, từ 5 đến dưới 10 triệu đồng/tháng chiếm 47,83%. Điều này gây trở ngại lớn trong việc phát triển các loại hình du lịch thượng hạng trong thời gian sắp tới. Trong khi đó, 74% khách quốc tế đến Đà Lạt đi theo dạng du lịch ba lô, thu nhập và khả năng chi trả của họ thấp hơn so với đối tượng khách đi theo dạng mua tour trọn gói. Do vậy, mức chi trả của họ không cao, nhiều trường hợp còn thấp hơn cả khách nội địa.

4.3.2. Nhân khẩu học của khách du lịch

Kết quả thăm dò khách tham quan đến Đà Lạt cho thấy độ tuổi dưới 18 chiếm 8,03%, từ 18 đến 25 chiếm 25,75%, từ 26 đến 60 chiếm 45,48%, trên 60 chiếm 20,74%. Khách du lịch đến Đà Lạt đa số rơi vào nhóm tuổi từ 26 đến 60, độ tuổi đang đi làm và chủ động về tài chính, nhưng lại thụ động về thời gian. Họ thường đi du lịch Đà Lạt vào dịp lễ, dịp hè kéo theo tình trạng quá tải cho các nền tảng lưu trú Đà Lạt. Ngoài ra, đối tượng khách trên 60 tuổi chiếm 20,74%. Đối tượng này đã qua độ tuổi làm việc nên thường chủ động về mặt thời gian, nguồn tài chính của họ cũng tương đối dồi dào, sẵn sàng chi trả cho các dịch vụ nghỉ dưỡng, chăm sóc sức khỏe và trị bệnh. Điều này hoàn toàn nằm trong khả năng thỏa mãn của du lịch Đà Lạt, nhất là du lịch nghỉ dưỡng. Đây là một lợi thế rất lớn để Đà Lạt có thể triển khai những dự án du lịch nghỉ dưỡng, chăm sóc sức khỏe, du lịch trị bệnh trong tương lai.

Xem Thêm :   Kinh nghiệm du lịch Sóc Trăng thuận tiện, đầy đủ

4.3.3. Mức độ ưng ý, không ưng ý, phàn nàn của khách tham quan

Thăm dò cho kết quả: rất ưng ý chiếm 12,71%, ưng ý chiếm 59,2%, tạm ưng ý chiếm 21,74% và không ưng ý chiếm 6,35%. Vận dụng công cụ NPS tính ra kết quả sau:

NPS = 14,33 – (21.74 + 6,35) = – 13,76

Kết quả -13,76 cho thấy, Đà Lạt chưa tạo được ấn tượng mạnh mẽ trong lòng khách du lịch. Phần lớn những khách tạm ưng ý hay không ưng ý đều cho rằng Đà Lạt chưa có nhiều sản phẩm đặc trưng để thu hút, giữ chân hoặc thôi thúc họ quay trở lại vào những lần sau. Đa số những khách được thăm dò đều ưng ý về du lịch Đà Lạt, chứ chưa thật sự được ấn tượng bởi những dịch vụ, hoạt động ở đây. Điều này cho thấy, lòng trung thành của khách tham quan với tp Đà Lạt chưa cao hay năng lực đối đầu của Đà Lạt chỉ ở mức trung bình. Do vậy, đơn vị quản lý, các nhà cung cấp lữ hành cần tìm thấy được những sản phẩm mới lạ, những hướng đi khác biệt so với các nơi đến du lịch khác để thu hút, thôi thúc khách tham quan trở lại vào những lần sau.

Để rõ hơn về mức độ ưng ý của khách tham quan so với từng nhân tố, tác giả đã tiến hành điều tra về các dịch vụ, đội ngũ nhân viên phục vụ du lịch và chất lượng các tiện nghi với kết quả cụ thể như sau: 

Bảng 2. Mức độ ưng ý của khách du lịch về các dịch vụ tại Đà Lạt

 Phần lớn các dịch vụ tại Đà Lạt đều chưa để lại ấn tượng mạnh với khách tham quan. Điều này trổ tài qua chỉ số NPS các dịch vụ khá thấp. Trừ dịch vụ tham quan, toàn bộ các dịch vụ còn lại đều có kết quả âm, trong đó đáng lưu ý là các dịch vụ ăn uống, sắm sửa và vui chơi tiêu khiển khi chỉ số NPS lần lượt là: -16,39%, -32,89% và -35,23%.

– Với dịch vụ ăn uống, kết quả này khá tranh chấp với thực tiễn khi có nhiều khách tham quan đánh giá mắc hoạt động ăn uống tại Đà Lạt như: nhiều rau xanh tươi ngon, khẩu vị thích hợp với nhiều vùng miền, nhiều món ăn mới lạ, mê hoặc,… Để lý giải điều này, tìm hiểu đã tổng hợp câu trả lời của 9 điều hành các doanh nghiệp du lịch như sau: (1). tình trạng nâng giá mắc của nhiều quán ăn, quán ăn trên địa bàn tp, đặc biệt vào dịp nghỉ lễ, cuối tuần và festival hoa Đà Lạt; (2). nhiều quán ăn, quán ăn đã đẩy giá lên cao để trích hoa hồng cho hướng dẫn viên, tài xế khi mang khách vào, nhằm giữ mối và tạo lượng khách ổn định.

– Về sắm sửa: Đà Lạt có rất ít các khu sắm sửa thượng hạng và khu sắm sửa tập trung, có rất ít sản phẩm lưu niệm đặc trưng của địa phương, không có các khu phố sắm sửa tập trung hay những cửa hiệu bán đồ thượng hạng, đồ hiệu,… Nhiều mặt hàng Trung Quốc trà trộn vào sản phẩm địa phương, gây mất niềm tin từ phía khách tham quan. Điều này làm hạn chế nhu nhà cầu dùng và sắm sửa của khách tham quan khi đặt chân đến Đà Lạt.

– Dịch vụ vui chơi tiêu khiển có chỉ số NPS thấp nhất trong toàn bộ các dịch vụ, trên thực tiễn đây cũng chính là nhược điểm nhất của du lịch Đà Lạt hiện tại. Ban ngày, ngoài các điểm tham quan, có rất ít khu vui chơi, tiêu khiển nào dành cho khách tham quan. Buổi tối, chỉ có một số địa chỉ có thể tới như rạp chiếu phim cinestar, các quán bar, café,… Các vũ trường, phòng trà cũng chỉ dừng lại ở mức độ vừa và nhỏ.

Những hạn chế trên làm cho hoạt động du lịch tại Đà Lạt trở nên đơn điệu và nhàm chán, đây cũng là một trong những yếu tố hạn chế khách tham quan quay trở lại trong những lần sau. Điều này được minh chứng qua thắc mắc thăm dò khách tham quan có muốn trở lại tham quan Đà Lạt vào những lần sau hay không (39,13% khách tham quan được hỏi, lần trước hết đến Đà Lạt), với kết quả NPS = -5,69 cho thấy tỉ lệ khách du lịch trung thành với nơi đến du lịch Đà Lạt hơi thấp, trong quá trình phát triển của mình, nơi đến du lịch Đà Lạt còn bộc lộ nhiều nhược điểm, nhiều điểm chưa vững chắc. Do vậy, đơn vị quản lý du lịch cần phải có những biện pháp khắc phục để nâng cao năng lực đối đầu cho hoạt động du lịch của tỉnh.

4.3.4. Nhận xét của các doanh nghiệp lữ hành, các trung gian môi giới

Các doanh nghiệp lữ hành thường gặp thuận tiện khi mang khách lên Đà Lạt, vì phần lớn các dịch vụ ổn định, giá cả phải chăng, khí hậu mát mẻ, khách tham quan thoải mái và thoải mái. Tuy nhiên, các nhà cung cấp này lại rất ngại làm tour lên Đà Lạt vào dịp lễ, mùa cao điểm. Những dịp này họ phải đặt phòng khách sạn trước 2 – 3 tháng với giá mắc gấp 2-3 lần so với ngày thường, dịch vụ ăn uống cũng tăng theo, tiếp theo là vấn nạn “cò” lò mứt, các đối tượng “cò” này thường ép các xe du lịch mang khách vào lò mứt, nhiều hướng dẫn đã bị hành hung khi từ chối mang khách vào. Nếu các đơn vị quản lý không có hướng khắc phục, không tạo điều kiện thuận tiện cho các hãng lữ hành tổ chức tour đến với mình thì trong tương lai, khi ngày càng có nhiều nơi đến du lịch mới nổi lên, các hãng này sẽ dần quay lưng với Đà Lạt để mang khách tham quan đến với các điểm du lịch mới, mê hoặc hơn.

4.3.5. Chất lượng nguồn nhân lực du lịch

Bảng 3. Mức độ ưng ý của khách tham quan về đội ngũ nhân viên

phục vụ du lịch

Nhóm được khách tham quan ưng ý cao đều làm việc trong hai ngành nghề quán ăn – khách sạn và các doanh nghiệp lữ hành, trong đó ưng ý cao nhất thuộc về nhóm nhân viên phục vụ ăn uống (NPS = 23,15), tiếp đó là nhóm nhân viên phục vụ buồng phòng (NPS = 21,14) và hướng dẫn viên du lịch (NPS = 20,81). Ba nhóm này đều có chỉ số NPS to hơn 20, chứng tỏ đội ngũ lao động thuộc quán ăn – khách sạn và các doanh nghiệp lữ hành thỏa mãn tốt nhu cầu của khách tham quan, mang lại sự ưng ý nhất định cho khách tham quan khi sử dụng các dịch vụ này tại Đà Lạt. Tuy nhiên, 59,2% khách tham quan cho rằng trình độ ngoại ngữ của nhân viên còn yếu. Họ thích thái độ phục vụ niềm nở của nhân viên nhưng cho rằng nghiệp vụ chưa được tốt, nhất là nhân viên lễ tân và phục vụ khách sạn, quán ăn.

Hai nhóm có chỉ số NPS thấp nhất thuộc nhóm nhân viên phục vụ sắm sửa và nhân viên phục vụ các khu vui chơi, tiêu khiển với chỉ số NPS lần lượt là -6,71 và -11,74. Vì thế, trong quy hoạch nguồn nhân lực du lịch cho địa phương, các nhà làm quản lý cần lưu tâm về trình độ, tuyệt kỹ phục vụ của đối tượng này.

4.3.6. Chất lượng các tiện nghi

Kết quả thăm dò mức độ ưng ý của khách về chất lượng các tiện nghi du lịch được trổ tài qua Bảng 4.

Bảng 4. Mức độ ưng ý của khách tham quan về chất lượng các tiện nghi du lịch

Chỉ số NPS của tham quan cao nhất (29,19). Hiện tại các dự án du lịch tại Đà Lạt đa số tập trung vào các điểm tham quan. Khi các khu du lịch tại Đà Lạt dần được cổ phần hóa, các nhà đầu tư đã chi khá mạnh để cải tổ hình ảnh của các khu du lịch mà trong đó đáng lưu ý nhất là nền tảng vật chất, các dịch vụ vui chơi mới trong các điểm du lịch.

Chỉ số NPS của vui chơi, tiêu khiển lại khá thấp (-11,41) cho thấy dịch vụ này chưa giải quyết được nhu cầu, kỳ vọng của khách tham quan. Từ đó, làm giảm đi năng lực đối đầu của Đà Lạt so với những địa phương có hoạt động vui chơi tiêu khiển phong phú, mê hoặc.

Xem Thêm :   베트남 푸꾸옥 자유여행 이것만 알면 끝

4.4. Phương án

– Đẩy mạnh thu nhập du lịch đi đôi với phát triển vững chắc: Cần mời gọi các dự án vui chơi tiêu khiển, nhất là hoạt động vui chơi tiêu khiển về đêm. Xây dựng nhiều khu sắm sửa, trong đó có các khu mua bán hàng lưu niệm đặc trưng và các đặc sản địa phương. Toàn bộ phải đảm bảo không phá vỡ phong cảnh, thích hợp với văn hóa Đà Lạt và lưu tâm đến công tác bảo tồn, bảo vệ hình ảnh “thành phố trong rừng, rừng trong thành phố”.

–  Phát triển sản phẩm du lịch để thu hút thêm khách quốc tế và duy trì hình ảnh tốt, tạo sức hút so với khách nội địa. Dựa vào những thế mạnh của Đà Lạt để tiếp tục phát triển mạnh và bài bản các sản phẩm sau: (1). Phát triển và khai thác tốt thương hiệu hoa Đà Lạt, quy hoạch phát triển Đà Lạt theo hướng các “con đường hoa”, định hướng Đà Lạt trở thành tp hoa Đào, trồng thêm hoa ở cửa ngõ vào Đà Lạt để tạo ấn tượng ngay từ ban đầu, xây dựng các chợ hoa và khu bán hoa tập trung, phát triển du lịch nhà vườn trồng hoa. (2). Quy hoạch và khai thác bài bản những tour du lịch canh nông, du lịch mạo hiểm, du lịch trải nghiệm và du lịch thiền (zen tourism); (3). Lưu tâm đầu tư, khai thác các dịch vụ ẩm thực: có thể quy hoạch khu Hòa Bình trở thành thiên đường ẩm thực giữa lòng tp, phục vụ nhu cầu ăn uống cho khách tham quan một cách tốt nhất.

– Lưu tâm phát triển nhân lực du lịch: Tăng cường nâng cao khả năng ngoại ngữ, giao tiếp cho nhân viên đang làm việc trong nghề Du lịch, nhất là những người phục vụ trực tiếp khách tham quan. Tập huấn cho đội ngũ lao động gián tiếp trong nghề Du lịch, người bán hàng để nâng cao nhận thức về phát triển du lịch.

– Tăng cường các hoạt động phát triển thị trường: Tiếp tục duy trì truyền bá thu hút thị trường đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam bộ, trong đó điểm nhấn là tp Hồ Chí Minh và dần mở rộng sang thị trường phía Bắc, nhất là những tỉnh thành có đường cất cánh thẳng đến Đà Lạt, có những biện pháp kích cầu trợ giúp cho các doanh nghiệp du lịch từ các tỉnh thành khác. So với khách quốc tế, nên chuyển hướng đầu tư truyền bá mạnh thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, 2 thị trường tiềm năng lớn nhất của Đà Lạt hiện tại. Những đối tượng này thường thích du lịch núi và đã có lượng lớn khách tham quan du lịch Đà Lạt trong thời gian vừa qua.

5. KẾT LUẬN

Qua việc nhận xét theo 4 tiêu chuẩn trên, có thể thấy với khách du lịch nội địa, năng lực đối đầu của nơi đến du lịch Đà Lạt khá cao nhưng so với khách du lịch quốc tế thì năng lực đối đầu của Đà Lạt yếu.

Năng lực đối đầu của Đà Lạt cao theo nhận xét của khách du lịch nội địa là do một số lợi thế sau: khí hậu mát mẻ và phong cảnh mê hoặc; môi trường du lịch an toàn, phong cảnh sạch sẽ; giá cả các dịch vụ rẻ; thông tin hướng dẫn du lịch nhanh chóng, kịp thời; sự phong phú/chất lượng của chương trình huấn luyện du lịch; giao tiếp giữa người dân địa phương với khách du lịch khá thân thiện; toàn bộ những điều này kéo theo số ngày lưu trú trung bình cao.

Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, du lịch Đà Lạt còn bộc lộ một số nhân tố không vững chắc như: sản phẩm du lịch còn đơn điệu, chưa khai thác hết được những lợi thế, điểm mạnh của địa phương; sản phẩm hoa Đà Lạt chưa có nhiều nét mới lạ, không tương xứng với danh hiệu tp festival hoa của Việt Nam; kế hoạch truyền bá chưa tập trung, chưa thực sự thu hút khách quốc tế; giao thông lên Đà Lạt có nhiều trở ngại, chưa có nhiều các chuyến cất cánh thẳng đến các nước khác; sự kém mê hoặc của các loại hình văn nghệ truyền thống; sự đơn điệu và kém mê hoặc của các dịch vụ vui chơi tiêu khiển; thể chế tài chính và phương tiện đổi tiền chưa tạo nhiều điều kiện thuận tiện cho khách; việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động du lịch chưa được rộng rãi; việc phát triển du lịch chưa thực sự giải quyết được yêu cầu của khách tham quan; nhận thấy quốc tế về các sản phẩm của nơi đến không cao; tình trạng nâng giá mắc vào mùa lễ hội; hoạt động du lịch bị tác động nhiều từ tính thời vụ; nguồn nhân lực còn yếu về chuyên môn nghiệp vụ và ngoại ngữ; nhiều vấn đề về môi trường, xử lý nước thải chưa được lưu ý đúng mức. Do vậy, để phát triển theo hướng vững chắc, du lịch Đà Lạt cần thay đổi một số yếu tố sau: phát triển đội ngũ nhân viên phục vụ giỏi; Phát triển hoa Đà Lạt trở thành sản phẩm du lịch chủ đạo của tp; Tăng cường đầu tư xây dựng nền tảng vật chất, hạ tầng để triển khai các hoạt động vui chơi, tiêu khiển, sắm sửa cho khách tham quan du lịch; Tập trung duy trì các thị trường khách hiện tại và hướng tới tiếp thị có chọn lọc để thu hút những thị trường khách ngoại có tiềm năng; Trong các phương án trên, cần lưu tâm mạnh hơn nữa phương án về thị trường và sản phẩm – 2 nhóm phương án quyết định rất lớn tới khả năng thu hút khách của Đà Lạt nếu được triển khai tốt.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Trần Thị Minh Hòa (2011). Bài giảng Quảng cáo nơi đến du lịch. Trường ĐH Khoa học xã hôi và nhân văn Hà Nội (tài liệu lưu hành nội bộ).
  2. Nguyễn Đình Hòe – Vũ Văn Hiếu (2001). Du lịch vững chắc. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
  3. Nguyễn Văn Mạnh – Nguyễn Đình Hòa (2009). Quảng cáo du lịch. Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân.
  4. Trần Đức Thanh (1999). Nhập môn Khoa học Du lịch. Nhà Xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội.
  5. Trương Thị Ngọc Thuyên (chủ nhiệm đề tài) (2009 – 2010). Thăm dò ý kiến khách du lịch nước ngoài về những điểm mạnh – nhược điểm của du lịch Đà Lạt – Lâm Đồng. Đề tài tìm hiểu khoa học Trường Đại học Đà Lạt.
  6. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lào Cai. Giải trình kết quả hoạt động năm 2016, 2017, 2018, 2019.
  7. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lâm Đồng. Giải trình kết quả hoạt động năm 2016, 2017, 2018, 2019.
  8. Từ điển thuật ngữ kinh tế học (2001), NXB Từ điển Bách khoa Hà Nội.
  9. Nguyễn Anh Tuấn (2010), Năng lực đối đầu nơi đến của du lịch Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế chính trị.
  10. Bùi Thị Hải Yến (2009). Quy hoạch du lịch. Nhà xuất bản Giáo dục.
  11. Bruce L.Berg. (2006). Qualitative research Methods for the Social Sciences. In: Pearson Education, Inc.
  12. Dwyer, L., P. Forsyth, and P. Rao. (2000). The Price Competitiveness of Travel and Tourism: A Comparison of 19 Destinations. Tourism Management, 21(1), 9-22. DOI: 10.1016/S0261-5177(99)00081-3
  13. Fang meng (2006). An examination of destination competitiveness from the tourists. Perspective: The relationship between quality of tourism experience and perceived destination competitiveness. Ph.D Thesis. Virginia Polytechnic Institute and State University.
  14. Ines Milohnić & Dora Smolčić Jurdana (2008). Tourist destination competitiveness: market challenges and evaluation systems. In: 27th International Conference on Organizational Science Development, Portoroz, Slovenia.
  15. Michael J. Enright & James Newton. (2005). Determinants of tourism destination competitiveness in asia pacific: comprehensiveness and universality. Journal of Travel Research, 43(4), 339-350. DOI: 10.1177/0047287505274647.
  16. World Trade Organization. (2007). A practical guide to tourism destination management. In: WTO.
  17. Trịnh Xuân Dũng (2019). Xây dựng thương hiệu nơi đến du lịch, thương hiệu doanh nghiệp du lịch thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. (http://www.itdr.org.vn/details_news-x-153.vdl)
  18. Thu Phương (2013). Phát triển vững chắc giá trị di sản đô thị Đà Lạt.

(http://ashui.com/mag/tuongtac/phanbien/8912-phat-trien-ben-vung-gia-tri-di-san-do-thi-da-lat.html)

 

A STUDY ON THE COMPETITIVENESS

OF DA LAT CITY’S TOURISM DESTINATION

DUONG NGOC LANG

Yersin University of Da Lat

ABSTRACT:

As new tourism destinations are emerging, it is necessary to study the competitiveness of Da Lat City in order to assert its tourism position to have appropriate development approaches and plans. This study was conducted by using the criteria for evaluating the tourism destination competitiveness of Metin Kozak and Dwyer & Kim and four methods of identifying the competitiveness of Da Lat City’s tourism destination.This study reviewed, analysed and evaluated the ability of Da Lat City to meet tourists’ expectations and hopes. By analyzing the competitiveness of Da Lat City’s tourism destination, this study proposed 5 solutions for Da Lat City to enhance the city’s competitiveness.

Keywords: Competitiveness, tourism destinations, destination competitiveness, Da Lat City’s tourism.

[Tạp chí Công Thương – Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ,

Số 23, tháng 9 năm 2020]

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Du Lịch

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Tổng Hợp
Xem thêm :  Mâm cúng khai trương cửa hàng chuẩn, kinh doanh thuận lợi, hồng phát

Related Articles

Back to top button