Tổng Hợp

Ngôn từ nghệ thuật là gì?


1. Khái niệm ngôn từ văn nghệ

Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp trọng yếu nhất của con người. Tất cả chúng ta sử dụng ngôn ngữ cùng với các phương tiện phi ngôn ngữ như ánh nhìn, nét mặt, cử chỉ, điệu bộ trong cuộc sống hàng ngày để truyền đạt thông tin, xúc cảm, để phá vỡ khoảng yên lặng giữa con người với con người và vạn vật xung quanh.

Ngôn từ văn nghệ, xét trên bình diện rộng, là ngôn ngữ của các nghề văn nghệ, trong đó có văn học. Song, ở một góc độ nào đấy, ngôn từ văn nghệ được hiểu trong phạm vi hẹp là ngôn ngữ văn chương, được dùng trong các văn bản văn chương, có tính năng thẩm mĩ – tức thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người bằng chính ngôn ngữ.

Ngôn từ văn nghệ là một hiện tượng văn nghệ do nghệ sĩ sáng tạo theo quy luật chung của văn nghệ. Điều này cũng nhằm nhất định sự khác biệt về bản chất giữa ngôn từ văn nghệ và ngôn ngữ nói chung – mặc dù “văn học là nghệ thuật của ngôn từ”, văn học sử dụng ngôn ngữ, lấy ngôn ngữ làm vật liệu để dệt nên hình tượng, để sáng tạo và thụ cảm. Đồng thời với việc sử dụng, người nghệ sĩ cũng gia công ngôn ngữ để biến nó thành phương tiện dấu hiệu văn nghệ có hiệu quả cao. Từ “quặng ngôn ngữ”, người sáng tác tôi luyện, gọt giũa để có được vật liệu cho hành trình sáng tạo và thể nghiệm. Có thể nói, ngôn từ văn nghệ là ngôn từ được lựa chọn và xử lí một cách tinh tế. Điều này phần nào được trổ tài trong một ý thơ nói về công việc của người “luyện đan ngôn từ”:

Nhà thơ như ong biến trăm hoa thành một mật

Một giọt mật thành, đời vạn chuyến ong cất cánh.

Ngôn từ văn nghệ được lấy từ chính cuộc sống nhưng khi đi vào tác phẩm, chúng mang những đặc trưng của một loại hình kí hiệu đặc biệt. Và nếu ngôn từ hàng ngày trong đời sống phụ thuộc vào ngữ cảnh trực tiếp thì ngôn từ văn nghệ dựa vào phép tắc thủ tiêu đặc trưng trực tiếp của ngữ cảnh. Lúc này, ngôn từ văn nghệ chỉ có ngữ cảnh thời kì, ngữ cảnh văn hoá, ngữ cảnh nội tại của chính nó.


2. Đặc trưng cơ bản của ngôn từ văn nghệ


a. Những đặc trưng chung

Ngôn từ văn nghệ – cũng như ngôn ngữ tự nhiên, đời thường, ngôn ngữ văn bản phi văn nghệ khác – đều có những dấu hiệu chung như tính hình tượng, tính cụ thể, gợi cảm, tính cá thể hoá, tình hàm súc, tính chuẩn xác, tính đa nghĩa, tính tạo hình, tính nhịp điệu… V. Scơlôpxki còn đề xuất thêm về tính lạ hoá, còn R. Jakobson thì xuất phát từ các tính năng giao tiếp mà xác nhận tính thơ trong ngôn từ thơ… Song, cần phải hiểu đặc trưng ngôn từ văn nghệ với một nội dung sâu sắc hơn, gắn liền với đặc trưng phản ánh đời sống của văn học và văn nghệ. Trên nền tảng đó có thể xác nhận những đặc trưng cơ bản của ngôn từ văn nghệ như sau:

– Đặc trưng thứ nhất: Tính hình tượng

Văn bản là một sản phẩm của một hoạt động giao tiếp đặc thù. Tính hình tượng của ngôn ngữ trước hết phát sinh từ tính hình tượng của chủ thể lời nói được sáng tạo bằng tưởng tượng. Và do vậy, tính hình tượng của bản thân ngôn từ văn nghệ có những thay đổi về chất. Toàn bộ ngôn từ đều là sản phẩm hư cấu cùng với chủ thể lời nói, là thứ ngôn từ mô tả mà từ vần, nhịp, từ, câu và tổ hợp trên câu đều có tính năng trình diễn như diễn viên trên sân khấu nhằm tái hiện thực tại văn nghệ.

Xem Thêm :   Các Dự Án Phan Thiết Mới Nhất 2021

Tính hình tượng đặc trưng của ngôn từ văn nghệ nằm sâu trong bản chất hình tượng của sáng tác. Nói như Letxing, lời văn là lời của toàn cầu hình tượng muốn tự nói lên bằng ngôn từ và hơn thế, ngôn từ trong văn nghệ tự bản thân nó là một hình tượng của ngôn ngữ.

– Đặc trưng thứ hai: Tính tổ chức

Tính tổ chức cao không phải là một độc quyền của ngôn từ văn nghệ song đó là một đặc trưng nổi trội, có ý nghĩa trong việc giải phóng tính hình tượng của từ. Lời văn văn nghệ nói chung không lúc nào chỉ thông báo giản đơn các việc xảy ra với nhân vật mà còn tái hiện cả một phức hợp quan hệ chủ quan và khách quan trong sự kiện đó. Sự tổ chức ngôn từ tạo thành sự cân đối, hài hoà cho tác phẩm, tăng trưởng sức dấu hiệu và cao hơn, tạo ra những phương thức diễn đạt mới. Trong thơ, tính tổ chức cao dấu hiệu ở vần, nhịp, niêm, đối… Trong văn, đó là sự nối kết khéo léo các nhà cung cấp ngôn ngữ để tạo thành những chuỗi lời nhịp nhàng, có khi đẩy thành những đợt sóng xúc cảm trào dâng. Trong Tôi đi học của Thanh Tịnh, đó là những dư vị ngọt ngào trở về vào mỗi độ thu sang:

“Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỉ niệm mơn man của buổi tựu trường.

Tôi quên sao được những xúc cảm trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cánh hoa tươi mỉm cười giữa khung trời quang đãng…

Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi thân mật nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tôi tự nhiên thấy lạ. Cảnh vật xung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học.”

Dòng thời gian chảy qua những kí ức êm ái của một khoảnh khắc trọng yếu đầu đời nhân vật trữ tình “tôi”. Nếu không quá Note tới một lớp tính từ chỉ xúc cảm như “nao nức”, “mơn man”, “trong sáng”… thì chính cách chọn lựa về thời gian, chính sự “sắp xếp” đầy dụng ý những khoảng nhớ, Thanh Tịnh đã kéo người đọc đi từ nao nức đến hồi hộp đợi chờ. Cuối cùng, khi những mảnh ngôn từ được ráp lại hoàn chỉnh, trọn vẹn, bức thông điệp mới được hé mở: “Chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học”.


b. Ngôn từ văn nghệ trong văn học thiếu nhi

Văn học thiếu nhi luôn là cuộc hành trình thi vị tìm về với thơ dại, với những thanh âm trong trẻo nhất, hồn nhiên nhất. Tính hình tượng, tính tổ chức cao hay cả tính lạ hoá, tính đa nghĩa… trong các sáng tác dành cho trẻ mẫu giáo và học sinh tiểu học chính vì thế cũng có những dư vị riêng, những biến điệu riêng.

Thơ, truyện viết cho thiếu nhi sử dụng một thứ ngôn từ rất chọn lọc, giản dị, trong sáng, dễ hiểu và ngắn gọn… Bùi Công Hùng trong “Nhịp điệu thơ thiếu nhi” đã lí giải những điệu thơ trên nền tảng nhịp điệu của hơi thở con người và cả của nhịp tim. Và do đó, những bài thơ dành cho trẻ thường có những câu ngắn 4, 5 chữ, thậm chí là 2 đến 3 chữ, nhịp thơ cũng được ngắt nhiều lần trong một câu:

Xem Thêm :   TOP 20 phim học đường hàn quốc hay mới nhất cho bạn

… Tiếng gà Giục quả na Mở mắt Tròn xoe

Giục hàng tre Đâm măng Nhọn hoắt

Giục buồng chuối Thơm lừng Trứng cuốc…

(Ò… ó… o…, Trần Đăng Khoa)

Sự nhịp nhàng còn trổ tài ở phương thức tổ chức câu, gieo vần, ở ngữ điệu đơn giản và một âm sắc có chọn lọc. Những từ ngữ chỉ sự thức tỉnh của vạn vật được đặt trong chuỗi ngôn từ tinh tế tạo thành điểm nhấn cho thơ:

Mở mắt (tròn xoe)

(Đâm măng) nhọn hoắt

Thơm lừng (trứng cuốc)

… nảy mầm

… uốn câu

… ra đồng

… chạy trốn

Một dấu hiệu nữa của ngôn từ trong văn học thiếu nhi là kết cấu ngôn ngữ trùng điệp được sử dụng khá nhiều như chính một dấu hiệu tâm lí trẻ: Thích nghe kể mãi một mẩu truyện mà không biết chán, đố nhau một câu dù ai cũng biết lời giải là gì… Trong văn (truyện), những câu dài cũng thường được “tự động” chia cắt thành nhiều câu ngắn theo đúng lối nghĩ, lối nói của các em. So với trẻ, hình thức hội thoại tạo dựng sớm hơn là độc thoại. Vì thế, văn cũng hướng tới những cuộc trò chuyện giữa các nhân vật.

Trẻ rất hứng thú và dễ bị mê hoặc bởi màu sắc, hình tượng và cũng đặc biệt thích tìm tòi, tìm hiểu. Văn học viết cho thiếu nhi đã lấp đầy những “cơn khát huyền diệu” đó bằng những từ ngữ giàu màu sắc, lấp láy, tươi vui, đồng thời cũng mở ra chân trời của sự mới lạ qua phép so sánh, nhân hoá trữ tình:

Trăng ơi… từ đâu đến?

Hay biển xanh diệu kì

Trăng tròn như mắt cá

Chẳng lúc nào chớp mi…

… Trăng cất cánh như quả bóng

Đứa nào đá lên trời?

(Trăng ơi… từ đâu đến?, Trần Đăng Khoa)

Và:

Cánh diều no gió

Sáo nó thổi vang

Sao trời trôi qua

Diều thành trăng vàng…

… Diều hay chiếc thuyền

Trôi bên sông Ngân…

Diều là hạt cau

Phơi trên nong trời…

… Diều em lưỡi liềm

Ai quên bỏ lại…

Cánh diều no gió Nhạc trời réo vang

Tiếng diều xanh lúa Uốn cong tre làng…

(Thả diều, Trần Đăng Khoa)


3. Tính năng cơ bản của ngôn từ văn nghệ

Về tính năng của ngôn từ văn nghệ, GS. Trần Đình Sử đã nhất định: “Chức năng của ngôn từ nghệ thuật là sáng tạo ra thực tại nghệ thuật, sáng tạo ra khách thể thẩm mĩ, đồng thời sáng tạo ra bản thân các hình tượng ngôn từ, các biểu hiện nghệ thuật, các hình thức lời thơ, lời văn xuôi nghệ thuật, để thoả mãn nhu cầu giao tiếp nghệ thuật” (Tài liệu 4, mục I, trang 210).

Để hiểu rõ tính năng của ngôn từ văn nghệ, cần nhận diện đúng vai trò của ngôn từ trong sáng tác văn nghệ. Một số xu hướng nên tránh:

  • Xem ngôn từ văn nghệ như một phương tiện ngoại hình, phương tiện giản đơn để truyền đạt cái hình tượng có sẵn.
  • Ngôn từ cần nhưng không trọng yếu, chỉ Note tới cá tính của ngôn từ nhân vật và ngôn từ tác giả.
  • Xem ngôn từ văn nghệ không đáng tin cậy, chẳng qua là trò chơi dựa trên sự tương đồng và khác biệt của các kí hiệu.
  • Xem giá trị, bản chất của văn học nằm trong văn bản ngôn từ, coi việc phân tích ngôn từ thay thế cho việc phân tích nội dung cuộc sống được trổ tài trong đó.

Xem Thêm :   Tour du lịch giá rẻ đảo Bali – Indonesia 15.500.000Đ

Tìm tòi tác phẩm văn nghệ qua ngôn từ là một con đường, song cần xem xét mối quan hệ biện chứng giữa ngôn từ và nội dung để không sa vào những cách tiếp cận cực đoan. Về tính năng, sự Note đúng mức đến tính “sáng tạo” của ngôn từ là việc làm hữu hiệu giúp người tìm hiểu giải mã được những giá trị tiềm tàng của một phạm trù thi pháp học rất mê hoặc và lí thú. Sự trổ tài của tính năng sáng tạo thực tại văn nghệ, sáng tạo khách thể thẩm mĩ… trong những tác phẩm cụ thể cũng rất phong phú và có độ khúc xạ thẩm mĩ lớn. Bởi ngôn từ văn nghệ là một hiện tượng do nghệ sĩ sáng tạo theo quy luật chung của văn nghệ, nó in đậm dấu ấn chủ quan của người sáng tác. Ngôn ngữ khi đi vào tác phẩm văn nghệ đã mang những nét cách điệu, hay nói cách khác, tự bản thân ngôn từ văn nghệ đã sáng tạo ra các hình tượng ngôn từ, phân phối cho văn nghệ những biểu tượng, những hình thức diễn đạt mới mẻ và do vậy, làm cho con người cảm thụ đời sống cũng như ngôn từ một cách mới mẻ hơn.

Trong số các tác giả viết cho thiếu nhi, Phạm Hổ là một cây viết luôn kiếm tìm không mệt mỏi những vật liệu ngôn từ vừa mộc mạc, thân thiện vừa mới lạ và đầy tính sáng tạo. Bài thơ Đàn gà mới nở là một thể nghiệm dễ thương về ngôn từ:

… Lông vàng mát dịu Mắt đẹp sáng ngời Ôi! chú gà ơi

Ta yêu chú lắm!

Mẹ dang đôi cánh Con biến vào trong

Mẹ ngẩng đầu trông Bọn diều, bọn quạ.

Lúc này thong thả Mẹ đi lên đầu Đàn con bé tí

Líu ríu chạy sau.

Con mẹ đẹp sao Những hòn tơ nhỏ

Chạy như lăn tròn Trên sân, trên cỏ.

Vườn trưa gió mát Bướm cất cánh dập dờn

Quanh đôi chân mẹ Một rừng chân con.

Phạm Hổ chọn những câu thơ bốn chữ để kiến tạo bài thơ. Một hiện thực cuộc sống rất ngộ nghĩnh, rất đáng yêu được ngôn từ văn nghệ chuyển tải qua những gam màu đẹp và những nét vẽ điểm xuyết tinh tế. Màu vàng mịn màng, mát dịu của bộ cánh non nớt, đôi mắt đẹp sáng ngời. Hình ảnh gà mẹ mang đàn con đi tìm mồi cũng được khắc chạm một cách khéo léo. Đàn gà con bé tí lúc thì “biến” vào trong đôi cánh của mẹ, khi lại “líu ríu” đuổi theo sau. Phép so sánh đẩy tứ thơ cất cánh lên cùng tưởng tượng cất cánh bổng về những viên ngọc trẻ thơ sáng lấp lánh:

Con mẹ đẹp sao Những hòn tơ nhỏ Chạy như lăn tròn Trên sân, trên cỏ.

Ngôn ngữ bài thơ căng tròn sức sống, sức sống mới nảy sinh với vẻ đẹp non tơ. Sau lớp vỏ ngôn từ ấy là những sáng tạo mới mẻ về hình tượng ngôn từ, hình tượng văn nghệ: đàn gà “biến” vào cánh mẹ, những chú gà nhỏ xinh lăn tròn như “hòn tơ” và từ “rừng” như một điểm nhấn tuyệt vời của sự bừng nở sức sống.

Lời thơ trong trẻo. Ý thơ cũng tràn ngập sự yêu thương. Và ngôn từ văn nghệ, với “sứ mệnh” của nó đã chuyển tải những giai điệu đẹp từ cuộc sống vào văn nghệ.

(Nguồn tham khảo: Bùi Thanh Truyền, Giáo trình văn học 2)

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Du Lịch

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Tổng Hợp
Xem thêm :  Thế Giới Động Vật – Mùa Giao Phối Động Vật Hoang Dã

Related Articles

Back to top button