Tổng Hợp

Phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật – Hùng Canslim- Cùng bạn làm giàu

Phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật
Phân tích chứng khoán là nhu cầu không thể thiếu trong đầu tư chứng khoán. Tùy vào khả năng trình độ, thời gian cũng như nhu cầu sử dụng, có thể có rất nhiều cách tiếp cận tìm hiểu, phân tích và ra các quyết định đầu tư khác nhau so với từng chứng khoán riêng rẽ hoặc so với cả mục lục đầu tư nói chung.
лучший сонник
купить мобильный телефон
Phân tích chứng khoán là nhu cầu không thể thiếu trong đầu tư chứng khoán. Tùy vào khả năng trình độ, thời gian cũng như nhu cầu sử dụng, có thể có rất nhiều cách tiếp cận tìm hiểu, phân tích và ra các quyết định đầu tư khác nhau so với từng chứng khoán riêng rẽ hoặc so với cả mục lục đầu tư nói chung.

Cổ phiếu là một loại chứng khoán hầu hết cần phân tích phục vụ đầu tư. Đến nay người ta đã tổng kết lại rằng có hai phương pháp phân tích đã được sử dụng một cách thông dụng tại hầu hết các thị trường chứng khoán (TTCK) trên toàn cầu, đó là phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật. Tuy nhiên, không ít nhà đầu tư còn nhầm lẫn về vai trò cũng như ứng dụng thực tiễn của hai phương pháp này. Vì vậy, việc hiểu rõ bản chất của hai phương pháp là thiết yếu.

Phân tích cơ bản (Fundamental Analysis)

Là phương pháp phân tích cổ phiếu dựa vào các nhân tố mang tính chất nền tảng có thúc đẩy hoặc dẫn tới sự thay đổi giá cả của cổ phiếu nhằm nêu ra giá trị nội tại (intrinsic value) của cổ phiếu trên thị trường.

Các nhân tố cơ bản cần tìm hiểu bao gồm: phân tích thông tin cơ bản về doanh nghiệp; phân tích giải trình tài chính của doanh nghiệp; phân tích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; phân tích nghề mà doanh nghiệp đang hoạt động; và phân tích các điều kiện kinh tế vĩ mô tác động chung đến giá cả cổ phiếu. Sau thời điểm tìm hiểu, nhà phân tích có nhiệm vụ phải nêu ra được những dự đoán cho những kpi trọng yếu như thu nhập kỳ vọng, giá trị sổ sách trên mỗi cổ phiếu, giá trị hợp lý của cổ phiếu, các nhận xét trọng yếu cũng như khuyến nghị mua/bán cổ phiếu trên thị trường.

Cụ thể, các nhân tố cần lưu tâm trong phân tích cơ bản về cổ phiếu là:

Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Mục tiêu và nhiệm vụ của doanh nghiệp
Khả năng lợi nhuận (hiện tại và ước đoán)
Nhu cầu so với sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp
Sức ép đối đầu và quyết sách giá cả
Kết quả sản xuất kinh doanh theo thời gian
Kết quả SXKD so sánh với doanh nghiệp tương tự và với thị trường
Vị trí trong nghề
Chất lượng quản lý
Ở góc độ tổng quát, phân tích cơ bản có thể được sử dụng theo phương pháp phân tích từ nhân tố vĩ mô đến nhân tố vi mô có tác động đến cổ phiếu (thường gọi là phương pháp top-down) gồm 5 cấp độ như sau:

Xem Thêm :   Excel 2013: Relative and Absolute Cell References

Xem thêm :  Thêm Font Cho Photoshop Cs6, Cách Thêm Font Chữ Vào Photoshop

Phân tích các điều kiện kinh tế vĩ mô
Phân tích thị trường tài chính – chứng khoán
Phân tích nghề mà doanh nghiệp đang hoạt động
Phân tích doanh nghiệp
Phân tích cổ phiếu
Trong thực tiễn, tùy vào mục tiêu và khả năng phân tích mà nhà phân tích có thể sử dụng một trong năm mức độ phân tích nêu trên. Ví dụ, trong phân tích về doanh nghiệp, ta có thể sử dụng phương pháp phân tích phi tài chính; đó là nhận xét về bộ máy quản lý doanh nghiệp, về nguồn nhân lực, khả năng phát triển sản phẩm mới, thị trường và thị phần, khả năng đối đầu… Cũng trong phân tích doanh nghiệp, nhà phân tích có thể sử dụng cách tiếp cận thường được gọi là phương pháp SWOT, với việc xác nhận và nhận xét tập trung vào 04 khía cạnh sau của doanh nghiệp:

Điểm mạnh (Strengths)
Nhược điểm (Weaknesses)
Thời dịp (Opportunities)
Thách thức (Threats)
Một cách phân tích nhanh về cổ phiếu, nhà đầu tư có thể phân loại cổ phiếu thành 06 loại cơ bản dựa trên tính chất thu nhập mà nó mang lại là: cổ phiếu hàng đầu (blue-chips), cổ phiếu tăng trưởng (ổn định và nở rộ), cổ phiếu phòng vệ, cổ phiếu chu kỳ, cổ phiếu thời vụ.

Riêng trong mức độ cốt lõi nhất và cũng khó khăn nhất là phân tích cổ phiếu, bản chất của phương pháp phân tích cơ bản ở đây là việc định giá cổ phiếu nhằm dự đoán giá trị nội tại của cổ phiếu đó. Với mục tiêu này, thông thường có 05 phương pháp định giá cổ phiếu là:

Phương pháp định giá dựa trên luồng cổ tức
Phương pháp định giá dựa trên luồng tiền
Phương pháp định giá dựa trên hệ số P/E
Phương pháp dựa trên các hệ số tài chính
Phương pháp định giá dựa trên tài sản ròng.
Phân tích kỹ thuật (Technical Analysis)

Là phương pháp dựa vào biểu đồ, đồ thị diễn biến giá cả và khối lượng mua bán của cổ phiếu nhằm phân tích các biến động cung cầu so với cổ phiếu để nêu ra cách ứng xử trước mắt so với giá cả, tức là chỉ cho nhà phân tích thời điểm nên mua vào, bán ra hay giữ nguyên cổ phiếu trên thị trường.

Xem Thêm :   5 hiểu lẩm về thị trường Internet khiến người khác thất bại khi kinh doanh trên mạng

Xem thêm :  Review Seashell Phú Quốc – tổng hợp đánh giá từ khách hàng

Vì vậy, nhà phân tích kỹ thuật hầu hết dựa vào tìm hiểu biến động giá thị trường của cổ phiếu, và tập trung nhấn mạnh vào hành vi biến động về giá và về khối lượng mua bán cũng như các xu hướng của hành vi giá và khối lượng đó.

Để thực hiện được phân tích kỹ thuật, cần phải có các giả định mấu chốt là:

Hành vi của bất kỳ cổ phiếu nào, hoặc của cả thị trường cổ phiếu, đều có thể liên quan đến xu hướng diễn biến theo thời gian, trong đó xu hướng là phương hướng chính đi lên hay đi xuống của cổ phiếu (hoặc cả thị trường cổ phiếu)
Biến động giá không phải là ngẫu nhiên mà chúng xảy ra dưới các dạng thức có thể được phân tích để dự đoán biến động tương lai
Biến động thị trường được phản ánh toàn bộ trong giá cổ phiếu
Lịch sử được lặp lại do bản chất của con người (nhà đầu tư) là không đổi nên sẽ lặp lại những hành vi giống nhau trước những tình huống tương tự, và điều đó dẫn theo các xu hướng giá cả lặp lại.
Để thực hiện phân tích kỹ thuật, nhà đầu tư phải dựa vào hình ảnh các đồ thị, trong đó trục tung biểu thị giá cổ phiếu và trục hoành biểu thị đường thời gian, với nhiều dạng như đồ thị đường thẳng (line chart), đồ thị dạng vạch (bar chart), hoặc đồ thị hình nến (candlestick chart). Thông qua đó, nhà phân tích kỹ thuật sử dụng các chỉ báo phân tích kỹ thuật thông dụng như đường xu thế, kênh xu thế, mức trợ giúp, mức kháng cự, điểm đột phá, đường trung bình động, chỉ số sức mạnh tương đối, dải Bollinger…
Các phương pháp và công cụ phân tích kỹ thuật được phát triển và trở nên thịnh hành chỉ từ đầu thế kỷ trước với sự nổi trội của lý thuyết Dow (của ông Charles Dow) với các ý tưởng phân tích được đăng tải lần trước nhất trên tạp chí Wall Street Journal. Lý thuyết Dow đến nay vẫn được coi là nền tảng cho phương pháp phân tích kỹ thuật với các chỉ báo trọng yếu nhất.

So sánh hai phương pháp

Phân tích cơ bản như nêu trên hoàn toàn dựa vào các yếu tố đầu vào và khả năng phân tích mang tính chủ quan. Vì vậy, cùng một cổ phiếu có thể có nhiều kết quả nhận định và phân tích khác nhau, và phân tích cơ bản thường được coi là bỏ qua yếu tố tâm lý đầu tư. Tuy nhiên, phân tích cơ bản là phương pháp hàng đầu và không thể thiếu được trong phân tích đầu tư cổ phiếu và làm nền tảng tương đối vững chắc cho việc ra các quyết định đầu tư. Có khoảng 90% các nhà đầu tư sử dụng phân tích cơ bản (Arshad Khan và Vaqar Zuberi, 1999, Stock Investing for Everyone, trang 85). Chính vì vậy mà các chương trình huấn luyện nổi tiếng toàn cầu về phân tích đầu tư là CFA (Chartered Financial Analyst – thông dụng ở Mỹ) và CIIA (Certified International Investment Analyst – thông dụng ở châu Âu) cũng hoàn toàn chứa các nội dung phục vụ cho phân tích cơ bản và không bao gồm nội dung phân tích kỹ thuật.

Xem Thêm :   Chùm Thơ Tháng 6 Hay – Những Bài Thơ Tình Về Tháng Sáu Cô Đơn

Xem thêm :  Tháp nhu cầu Maslow và ứng dụng trong Marketing

Về phía phân tích kỹ thuật, do phương pháp này dựa vào diễn biến hành vi của cổ phiếu, nên đó là những công cụ ngắn hạn và không nên được dùng cho phân tích lâu dài. Tuy nhiên, phân tích kỹ thuật cũng thu hút được một số lượng đáng kể nhà đầu tư tin dùng. Ở nhiều nước, các nhà phân tích theo trường phái phân tích kỹ thuật thường hội tụ trong Hiệp hội các nhà phân tích kỹ thuật thị trường (Market Technicians Association) và cũng tổ chức các kỳ thi chuẩn hóa phân tích kỹ thuật theo các chương trình được gọi tên là CMT (Chartered Market Technician)
Một số học giả cho rằng, phân tích cơ bản tìm hiểu các nguyên nhân dẫn tới biến động giá cổ phiếu trên thị trường để trả lời thắc mắc “tại sao xảy ra và xảy ra điều gì trong giá cổ phiếu”, còn phân tích kỹ thuật tìm hiểu các hiệu ứng của nó để trả lời thắc mắc “khi nào thay đổi giá cổ phiếu sẽ bắt đầu và khi nào kết thúc”. Nói cách khác, nhà phân tích kỹ thuật chỉ cần biết hiệu ứng là gì mà không cần quan tâm tới nguyên nhân vì sao lại dẫn tới tình hình đó; còn nhà phân tích cơ bản phải luôn cần phải biết nguyên nhân vì sao. (John J. Murphy, 1999, Technical Analysis of the Financial Markets, trang 5)

Dưới góc độ đầu tư, việc phối hợp cả hai phương pháp phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật hình như có thể mang lại những kết quả phối hợp tốt nhất. Điều đó đòi hỏi sự thời gian, sự thấu hiểu và trình độ phân tích đáng kể của nhà đầu tư và đó là một công việc không thực sự dễ dàng.

Theo Tạp Chí Chứng Khoán
– See more at: http://clevercfo.edu.vn/cong-cu-tai-chinh/27-phan-tich-co-ban-va-phan-tich-ky-thuat.html#sthash.uAHA3EUg.dpuf

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Kĩ Năng Sống

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Tổng Hợp

Related Articles

Back to top button