Giáo Dục

Thuyết minh về cách làm bánh chưng, cách gói❤️️phương pháp

thuyết minh về cách làm bánh chưng, Cách Gói ❤️️ Phương Pháp ✅ Hình Ảnh Chiếc Bánh Chưng Xanh Vuông Vắn, Tượng Trưng Cho Đất Trời Đã Thật Quen Thuộc Với Con Người Việt Nam.

Dàn Ý Thuyết Minh Về Cách Làm Bánh Chưng

Dàn Ý Thuyết Minh Về Cách Làm Bánh Chưng chi tiết sau đây giúp các em triển khai bài văn đầy đủ ý nhất.

Mở bài: Giới thiệu vài nét đơn giản về bánh chưng.

Thân bài

– Nguồn gốc bánh chưng

Bánh chưng được ra đời từ rất lâu, loại bánh này có liên quan đến Lang Liêu trong thời vua Hùng Vương thứ 6, đây chính là người đã làm ra. Bánh chưng luôn muốn nói rằng sự quan trọng vai trò hết sức lớn lao của nền văn minh lúa nước.

– Ý nghĩa của loại bánh này

Bánh chưng mô phỏng và tượng trưng cho đất, nhắc nhớ con người phải biết ơn mảnh đất đã nuôi sống chúng ta.

– Cách làm thế nào

Chuẩn bị nguyên liệu:

  • Lá dong, lá chuối dùng gói bánh
  • Gạo nếp ngon
  • Thịt mỡ, đậu xanh làm nhân bánh

Thực hiện:

  • Công đoạn gói bánh
  • Công đoạn luộc bánh
  • Công đoạn ép và bảo quản bánh khi bánh chưng đã chín.

Bánh chưng dùng làm gì ?

  • Bánh chưng để biếu cho người thân, bạn bè.
  • Dùng chiêu đãi khách đến nhà.
  • Thờ cúng tổ tiên trong ngày tết.

– Tầm quan trọng, vị thế của bánh chưng

Kết bài: Bánh chưng loại bánh có truyền thống lâu đời trong lịch sử dân tộc, trải qua hàng nghìn năm bánh vẫn không có nhiều sự thay đổi và vẫn giữ nguyên tinh thần đến ngày nay. Bánh chưng vẫn là nét đẹp trong ẩm thực và nhắc nhở con người về nền văn minh lúa nước.

Giới Thiệu Bài ? Thuyết Minh Về Món Ăn Ngày Tết ❤️️ 15 Bài Văn Hay Nhất

TM Về Cách Làm Bánh Chưng Chi Tiết – Bài 1

Thuyết Minh Về Cách Làm Bánh Chưng Chi Tiết được nhiều bạn đọc yêu thích và chia sẻ sau đây.

Bánh chưng là biểu tượng không thể thiếu trong dịp Tết cổ truyền. Từ xa xưa đến nay, mỗi dịp Tết đến xuân về, người người nhà nhà lại chuẩn bị những nồi bánh chưng rất to để đón Tết. Bởi trong tâm thức của mỗi người thì bánh chưng là món ăn mang ý nghĩa sum vầy, đoàn viên bình dị nhưng ấm áp.

Người xưa vẫn lưu truyền rằng bánh chưng ngày Tết có từ rất lâu. Mọi người vẫn tin rằng bánh chưng bánh giầy có từ thời vua Hùng thứ 6, và cho đến ngày nay thì nó đã trở thành biểu tượng của Tết truyền thống tại Việt Nam. Người đời vẫn luôn cho rằng bánh chưng minh chứng cho sự tròn đầy của trời đất và sự sum vầy của gia đình sau một năm trời làm việc tất bật, vội vã.

Cho dù là ở miền Bắc, Trung hay Nam thì bánh chưng là món ăn không thể thiếu trong ngày Tết. Có thể nói đây là món ăn được chờ đợi nhiều nhất, vì ngày Tết mới đúng là ngày thưởng thức bánh chưng ngon và ấm áp nhất.

Về nguyên liệu, bánh chưng được làm từ những thứ rất đơn giản và dễ chuẩn bị; kết hợp với bàn tay khéo léo của người gói bánh. Nguyên liệu chủ yếu là gạo nếp, lá dong, thịt, đậu xanh giã nhỏ. Mỗi nguyên liệu đều được chọn lọc thật kĩ để có thể tạo nên món ăn ngon đậm đà nhất. Về phần gạo nếp thì người ta chọn những hạt tròn lẳn, không bị mốc để khi nấu lên ngửi thấy mùi thơm lừng của nếp.

Đậu xanh chọn loại đậu có màu vàng đẹp, nấu nhừ lên và giã nhuyễn làm nhân. Người ta sẽ chọn thịt ba chỉ hoặc thịt nạc, trộn với tiêu xay, hành băm nhuyễn. Một nguyên liệu khác không kém phần quan trọng chính là lá dong để gói bánh. Ở một số vùng khác người ta dùng lá chuối gói bánh nhưng phổ thông nhất vẫn là lá dong.

Lá dong cần có màu xanh đậm, có gân chắc, không bị héo và rách nát. Hoặc nếu những chiếc lá bị rách người ta có thể lót bên trong chiếc lá lành để gói. Khâu rửa lá dong, cắt phần cuống đi cũng rất quan trọng vì lá dong sạch mới đảm bảo vệ sinh cũng như tạo mùi thơm sau khi nấu bánh..

Sau khi đã chuẩn bị tất cả các nguyên vật liệu thì đến khâu gói bánh. Gói bánh chưng cần sự tẩn mẩn, tỉ mỉ và khéo léo để tạo nên chiếc bánh vuông vắn cúng viếng ông bà tổ tiên. Nhiều người cần phải có khuôn vuông để gói nhưng nhiều người thì không cần, chỉ cần gấp bốn góc của chiếc lá dong lại là có thể gói được. Bao bọc xung quanh nhân đậu và thịt là một lớp nếp dày. Chuẩn bị dây để gói, giữ cho phần ruột được chắc, không bị nhão ra trong quá trình nấu bánh.

Công đoạn nấu bánh được xem là khâu quan trọng. Thông thường mọi người nấu bánh bằng củi khô, nấu trong một nồi to, đổ đầy nước và nấu trong khoảng từ 8-12 tiếng. Thời gian nấu lâu như thế là vì để đảm bảo bánh chín đều và dẻo. Khi nước bánh sôi, mùi bánh chưng bốc lên nghi ngút. Lúc đó mọi người bắt đầu cảm nhận được không khí Tết đang bao trùm lấy căn nhà. Bánh chưng sau khi chín được mang ra và lăn qua lăn lại để tạo sự săn chắc cho chiếc bánh khi cắt ra đĩa và có thể để được lâu hơn.

Đối với mâm cơm ngày Tết thì đĩa bánh chưng là điều tuyệt vời không thể thiết. Cũng như trên bàn thờ ngày tết, một cặp bánh chưng cúng tổ tiên là phong tục lưu truyền từ bao đời nay. Bánh chưng tượng trưng cho sự trọn vẹn của trời đất, cho những gì phúc hậu và ấm áp nhất của lòng người. Trong ngày Tết có rất nhiều lấy bánh chưng làm quà biếu, và đây chính là món quà ý nghĩa tượng trưng cho lòng thành, cho sự chúc phúc tròn đầy nhất.

Mỗi dịp Tết đến xuân về, bánh chưng bốc lên nghi ngút chính là báo hiệu cho sự ấm áp của gia đình. Bánh chưng là biểu tượng ngày Tết mà không có bất cứ loại bánh nào có thể thay thế được. Vì đây là truyền thống, là nét đẹp của con người Việt Nam, cần gìn giữ và tôn trọng từ quá khứ, hôm nay và cả ngày mai nữa.

Gợi Ý Bài ? Thuyết Minh Về Loài Hoa Ngày Tết ❤️️15 Bài Thuyết Minh Hay Nhất

Giới Thiệu Về Cách Làm Bánh Chưng Văn Hay – Bài 2

Thuyết Minh Giới Thiệu Về Cách Làm Bánh Chưng Văn Hay giúp các em có thêm nhiều thông tin hay và trau dồi thêm kiến thức cho mình.

Bánh chưng là món ăn dân tộc mà ngày Tết gia đình nào cũng có để thờ cúng tổ tiên, sau đó là ăn trong dịp Tết. Với nhiều người dân, bánh chưng là biểu tượng của sự sum vầy, đầy đủ trong năm mới. Đây cũng là món ăn có bề dày lịch sử lâu đời trong ẩm thực nước nhà.

Theo lịch sử ghi chép lại bánh chưng ra đời thời vua Hùng thứ 6. Sau khi đánh dẹp giặc ngoại xâm nhà vua yêu cầu các hoàng tử, quan lại hãy dâng lên vua cha thứ quí nhất để cúng lên bàn thờ tổ tiên. Lang Liêu trăn trở chưa tìm được thứ gì quý giá dâng lên vua, khi nằm mơ chàng thấy vị thần đến chỉ cho cách làm một loại bánh từ lúa gạo và những nguyên liệu có sẵn gần gũi với người nông dân, quả thực thứ bánh đó làm vua cha rất hài lòng. Bánh chưng bánh dày ra đời từ đó và được lưu truyền đến ngày nay.

Dù cách xa nhiều thế hệ nhưng cách làm bánh chưng truyền thống vẫn không có nhiều sự thay đổi. Nguyên liệu chủ yếu là nếp, lá dong, thịt, đậu xanh đã được giã nhỏ. Nếp khi mua phải chọn những hạt tròn, không bị mốc khi nấu lên sẽ có mùi thơm. Đậu xanh phải là loại đậu có màu vàng, đậu xanh sẽ được sử dụng làm nhân bánh.

Phần thịt cũng làm nhân nên cần phải chọn thật tỉ mỉ, thông thường sẽ mua thịt ba chỉ hoặc thịt nạc, trộn với tiêu xay, hành băm nhuyễn. Phần cuối cùng đó là mua lá dong gói bên ngoài tạo nên sự thẩm mỹ cho chiếc bánh chưng. Lá dong phải còn tươi, có gân, màu xanh đậm. Khi mua lá dong về phải rửa bằng nước, cắt phần cuống.

Khi mua xong các nguyên liệu cần thiết, bắt tay vào gói bánh chưng. Công đoạn này yêu cầu người làm phải khéo léo, cẩn thận mới tạo nên chiếc bánh chưng đẹp. Thông thường gấp 4 góc của chiếc lá dong lại là có thể gói được. Bao bọc xung quanh là phần nhân đậu và thịt là một lớp nếp dày. Người làm phải chuẩn bị dây để gói, cố định phần ruột bên trọng được chắc chắn khi đó nấu bánh sẽ thuận lợi.

Sau quá trình gói bánh người thực hiện chuyển sang nấu bánh, nấu bánh chưng với ngọn lửa từ củi khô, cho bánh vào trong một nồi lớn, đổ đầy nước và nấu liên tục trong thời gian từ 8-12 tiếng. Khi nấu đủ thời gian trên bánh sẽ dẻo, ngon hơn.

Bánh chưng không chỉ là món ăn dân tộc mà còn mang biểu tượng may mắn, sum vầy trong năm mới. Dịp Tết có những chiếc bánh chưng trên bàn thờ tổ tiên là cách để tỏ lòng tôn kính, biết ơn với thế hệ trước. Bánh chưng còn dùng làm quà biếu cho người thân, bạn bè.

Giới Thiệu Bài ? Thuyết Minh Về Hoa Đào Ngày Tết ❤️️15 Bài Về Cây Đào Hay

Giới Thiệu Về Cách Làm Bánh Chưng Ngày Tết – Bài 3

Thuyết Minh Giới Thiệu Về Cách Làm Bánh Chưng Ngày Tết được SCR,VN chọn lọc và chia sẻ đến bạn đọc sau đây.

Tết Nguyên Đán ở Việt Nam là cái Tết cổ truyền đã có tự ngàn xưa với: Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ. Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh. Trên bàn thờ ngày Tết của mỗi nhà, nhất thiết phải có bánh chưng.

Giai thoại kể rằng hoàng tử Lang Liêu con vua Hùng đã được thẩn linh mách bảo, dùng lá dong, gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn… làm ra thứ bánh này để cúng Trời Đất, Tiên Vương và dâng lên vua cha. Nhờ đó mà chàng được vua cha truyền lại cho ngôi báu. Cũng từ đấy, bánh chưng được dùng để cúng vào dịp Tết. Tục lệ tốt đẹp ấy còn tồn tại cho tới ngày nay.

Nhìn chiếc bánh chưng, ta thấy mộc mạc, giản dị vô cùng, nhưng để làm ra nó lại tốn không ít công phu. Cứ đến hàm bảy, hăm tám Tết là các bà phải lo đi chợ mua lá dong cùng với mấy bó lạt giang. Lá dong phải to bản, lành lặn. Tốt nhất là lá dong bánh tẻ, không già, không non thì gói bánh mới đẹp. Lạt giang chẻ sẵn, mỏng và mềm, màu vàng ngà, rất ăn ý với lá dong xanh.

Gạo nếp cái hoa vàng vừa dẻo vừa thơm được ngâm từ đêm trước, đem xả rồi xóc cho ráo nước. Đậu xanh đãi sạch vỏ. Thịt lợn xắt miếng to cỡ nửa bàn tay ướp muối, tiêu, hành chó thấm. Lá dong đã được cắt cuống, rửa sạch, lau khô… Tất cả bày sẵn ra chiếc nong, chờ người gói.

Cái cách gói bánh chưng ngày Tết mới vui vẻ và đầm ấm làm sao! Cả nhà quây quần quanh bà. Bà trải lá ra mâm, đong một bát gạo đổ vào, dàn đều rồi đổ nửa bát đỗ, xếp hai miếng thịt, lại thêm nửa bát đỗ, một bát gạo nữa. Tay bà khéo léo đãi gạo che kín đỗ và thịt rồi nhẹ nhàng bẻ bốn góc lá cho vuông vức, sau đó xiết chặt từng chiếc lạt.

Chẳng mấy chốc, chiếc bánh chưng đã được gói xong. Suốt một buổi sáng cặm cụi, bận rộn, bà đã gói hết thúng gạo. Bố tôi buộc hai cái thành một cặp rồi xếp vào chiếc nồi thật lớn, chuyên dùng để luộc bánh. Đám trẻ chúng tôi được bà gói cho mỗi đứa một chiếc bánh chưng be bé. Chùm bánh ấy để ở trên cùng và sẽ vớt ra trước nhất.

Phía góc sân, bốp lửa đã cháy đều. Năm nào, ông tôi hoặc bố tôi cũng giữ nhiệm vụ canh lửa, canh nước cho nồi bánh chưng. Những gộc tre, gộc củi khô tích trữ quanh năm giờ được đem ra đun. Ngọn lửa nhảy nhót réo ù ù, tàn than tí tách bắn ra xung quanh những chấm đỏ rực trông thật vui mắt. ông tôi bảo phải đun cho lửa cháy thật đều thì bánh mới rền, không bị hấy. Anh em tôi xúm xít bên ông, vừa hơ tay cho khỏi cóng, vừa nghe ông kể chuyện ngày xửa ngày xưa. Đến những đoạn thú vị, ông cười khà khà, rung cả chòm râu bạc.

Khoảng tám giờ tối thì bố tôi dỡ bánh, xếp rải ra trên chiếc chõng tre ngoài hiên. Hơi nóng từ bánh bốc lên nghi ngút, toả ra một mùi thơm ngậy, nồng nàn. Bố tôi đã chuẩn bị hai tấm ván gỗ và chiếc cối đá để nén bánh. Khó có thể tả nổi niềm sung sướng, hân hoan của lũ trẻ chúng tôi khi được nếm chiếc bánh chưng nhỏ xinh, nóng hổi. Nếp dẻo, đỗ bùi, thịt béo… ngon quá là ngon! Tưởng chừng như chẳng có thứ bánh nào ngon hơn thế!

Chiều ba mươi Tết, trên bàn thờ đèn nến sáng trưng, hương trầm nghi ngút, những cặp bánh chưng xanh được trân trọng bày bên cạnh đĩa ngũ quả, hộp trà, hộp mứt, chai rượu… và mâm cỗ tất niên để cúng trời đất, tổ tiên, đón các cụ về ăn Tết cùng con cháu. Nỗi xúc động rưng rưng trong lòng mỗi người. Không khí thiêng liêng của ngày Tết thực sự bắt đầu.

SCR.VN Gợi Ý ? Thuyết Minh Về Cây Mai Ngày Tết Hay ❤️️15 Mẫu Về Hoa Mai

Thuyết Minh Về Cách Làm Bánh Chưng Ngắn Gọn Nhất – Bài 4

Thuyết Minh Về Cách Làm Bánh Chưng Ngắn Gọn Nhất là tài liệu tham khảo hữu ích giúp các em học sinh ôn tập thật tốt.

Bánh chưng nếu mỗi ai ăn thì không thể quên hương vị của nó, bởi vị đặc trưng của nó. Nhìn có vẻ đơn giản nhưng để làm ra được một chiếc bánh chưng vuông vắn và thơm ngon thì người làm cũng tốn biết bao công sức. Tất cả từ khâu chọn nguyên liệu đến luộc bánh và vớt, bảo quản bánh cũng phải làm kĩ lưỡng. Không kể đến công nghiệp gói bánh chưng ngày nay, thì đối với mỗi tuổi thơ của chúng ta không thể nào quên hình ảnh cả gia đình quây quần gói bánh ngày Tết.

Hình ảnh đó thật ấm cúng làm sao. Các bà, các mẹ sẽ đi chợ từ sớm để mua những bó lá dong. Cách chọn lá dong gói bánh là những lá to, mịn, xanh mướt và không rách. Sau đó sẽ rửa sạch với nước và cắt tỉa phù hợp để gói bánh. Nguyên liệu gói bao gồm gạo nếp, thịt lợn, nhân đậu xanh, hạt tiêu, hành…Sau khi chuẩn bị xong đến công đoạn gói bánh. Thường người ta sẽ dùng khuôn gỗ sẵn cho chiếc bánh được vuông vắn, đẹp đẽ. Xếp lá vào khuôn xong đổ một bát gạo, xếp hai miếng thịt, tiếp đến là nửa bát đỗ và thêm một bát gạo nữa.

Như vậy là xong một chiếc bánh, người gói bắt đầu buộc lạt để hoàn thành nốt. Cứ tiếp như vậy những chiếc bánh vuông vắn dần được hoàn thành chờ xếp vào nồi để luộc. Để luộc bánh, người ta xếp những lá cắt dở và hỏng xuống đáy nồi rồi mới xếp bánh vào, đổ nước và bắt đầu luộc. Luộc bánh phải dùng bếp củi và thường xuyên đổ nước để không bị cháy, bánh mới ngon. Khi vớt, dùng mâm hoặc rổ vớt bánh để ráo nước và nguội mới được bỏ tủ lạnh.

Chia Sẻ Bài ? Thuyết Minh Về Cây Điều, Hạt Điều ❤️️ 15 Bài Hay Nhất

Thuyết Minh Về Cách Làm Bánh Chưng Hay Nhất – Bài 5

Thuyết Minh Về Cách Làm Bánh Chưng Hay Nhất giúp các em có thể học hỏi và trau dồi thêm cho mình nhiều kĩ năng hay.

Nếu người Hàn Quốc tự hào vì có kim chi, canh bánh gạo với vị cay nồng đặc trưng, người Trung Hoa có món Tổ mang ý nghĩa năm mới tốt đẹp hơn năm cũ thì dịp Tết cổ truyền của người Việt Nam lại không thể thiếu món bánh chưng xanh làm từ gạo nếp dẻo thơm. Đó vừa là biểu tượng của sự đầm ấm, sum vầy, sinh sôi nảy nở của vạn vật, vừa thể hiện được lòng biết ơn của con cháu đối với Tổ Tiên, các bậc vua Hùng có công dựng nước. Và hơn thế nữa, bánh chưng còn có ý nghĩa rất lớn trong nền văn minh lúa nước của người Việt.

Bánh chưng gắn liền với sự tích “Bánh chưng, bánh dày” và vị hoàng tử Lang Liêu vào đời vua Hùng thứ 6. Theo đó, sau khi dẹp xong giặc Ân, vua có ý định truyền ngôi cho con trai. Vừa đúng dịp đầu xuân, vua họp mặt tất cả các vị hoàng tử lại và bảo rằng: “Con nào tìm được thức ăn ngon lành, để bày cỗ cho có ý nghĩa nhất, thì ta sẽ truyền ngôi vua cho”. Các vị hoàng tử đua nhau lên rừng, xuống biển những mong tìm kiếm được sơn hào hải vị dâng biếu vua cha.

Chỉ riêng có hoàng tử thứ 18 là Tiết Liêu (Lang Liêu) – sống có đức, rất hiểu thảo với cha mẹ – do mẹ mất sớm không có ai chỉ lối nên vô cùng lo lắng. Một hôm, hoàng tử nằm mộng được vị Thần đến bảo “Này con, vật trong Trời Đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người. Con hãy nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng hình Trời và Đất.

Hãy lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột bánh, để tượng hình Cha Mẹ sinh thành”. Khi Hoàng tử Lang Liêu dâng lên vua cha món bánh chưng, bánh dày, vua ăn thấy ngon lại rất ý nghĩa nên bèn truyền ngôi cho hoàng tử. Cũng kể từ đó, mỗi khi đến Tết Nguyên Đán, dân chúng làm bánh Chưng và bánh Giầy để dâng cúng Tổ Tiên và Trời Đất.

Về mặt lịch sử, bánh chưng xanh gắn với nền văn hóa Lạc Việt, được nhắc đến trong Lĩnh Nam chích quái. Thời điểm ra đời của chiếc bánh chưng xanh cũng trùng với giai đoạn vừa dẹp xong giặc Ân. Đây là loại bánh chính thống và lâu đời của Việt Nam.

Bánh chưng xanh có hình dáng vuông vức, phân biệt rạch ròi với bánh Tét dài ở một số vùng miền. Bánh vuông tượng trưng cho đất, những mong năm mới mùa màng bội thu, vạn vật sinh sôi, nảy nở, nhân dân có cuộc sống bình yên, ấm no và hạnh phúc. Như vậy, gói bánh chưng không đơn thuần chỉ là gói ghém các nguyên liệu, mà còn là gói nghĩa tình, gói cả yêu thương giữa con người với con người.

Nguyên liệu làm bánh chưng gồm: lá dong, gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn, hành, tiêu… Mỗi nguyên liệu đều được chọn lọc kỹ càng. Lá dong chọn lá xanh đậm, có gân chắc, lá to không bị rách hoặc héo rũ, sau đó đem rửa sạch, phơi qua nắng để lá héo sẽ dễ gói hơn. Gạo nếp phải chọn loại thơm và dẻo, hạt đều đặn, đem vo qua nước rồi ngâm 2 – 3 tiếng để hạt gạo nở đều, khi luộc sẽ nhanh chín hơn. Đậu xanh xát bỏ vỏ, đun nhừ rồi vo thành từng viên tròn để làm nhân.

Riêng với thịt lợn, người làm bánh chọn miếng thịt có cả mỡ và nạc, thường là thịt ba chỉ để đảm bảo độ ngầy ngậy, không bị quá khô hoặc quá ngán. Ngoài ra cần phải chuẩn bị thêm lạt giang chẻ mong, ngâm qua nước để buộc bên ngoài bánh. Tất cả các nguyên liệu này chính là biểu tượng của nền văn minh lúa nước, vùng có khí hậu quanh năm nóng ẩm, nhiệt đới mang tính truyền thống, đậm đà bản sắc dân tộc.

Khó nhất trong cách làm bánh chưng chính là khâu gói bánh. Người gói đòi hỏi phải có tay nghề, sự tỉ mỉ, kiên trì và khéo léo thì bánh mới vuông vức, đều đặn, đẹp và chắc tay. Đầu tiên, xếp 2 tàu lá dong úp xuống, hơi chồng lên nhau. Sau đó, xếp tiếp 2 lá mặt ngửa theo hình chữ thập lên trên rồi đặt khuôn gói vào chính giữa. Gói lần lượt các mặt lá xung quanh thành hình vuông của khuôn rồi đặt một khuôn mới, vuông và to hơn phía ngoài.

Đến đây, mở lá lấy khuôn ở phía trong ra, rải lần lượt nguyên liệu vào bên trong, gạo nếp thì phủ kín 2 mặt lại, dàn đều và gói cẩn thận. Khâu gói bánh đòi hỏi phải chắc tay, cẩn thận buộc từng dây lạt để bánh không bị méo mó, không bị vỡ khi luôn chín. Khó là khó vậy nhưng lạ thay, cả già trẻ, gái trai đều quây quần, háo hức được gói bánh.

Luộc bánh chưng phải luộc bếp củi, thời gian từ 8 – 10 tiếng thì bánh mới mềm, thơm ngon. Trong quá trình luộc phải luôn canh để lửa đều, vừa phải trong nồi có đủ nước. Được một nửa thời gian thì lật bánh, đổi vị trí của những chiếc bánh để không bị đập nát hoặc nhão. Đến khi bánh chín, vớt ra, xếp thành từng lớp rồi dùng vật nặng nén lại nhưng vậy, bánh sẽ rền, mịn, phẳng và chắc hơn.

Cũng bởi thời gian luộc lâu và cần sự tỉ mỉ khi luộc nên ngồi trông nồi bánh chưng chiều 30 tết cũng trở thành một nét đẹp trong văn hóa của người Việt, đặc biệt là tuổi thơ của những đứa trẻ. Khi bánh gần chín, mùi thơm của gạo nếp quyện với lá xong, thịt mỡ, dưa hành… khiến chúng đứng ngồi không yên, háo hức ngóng những chiếc bánh thơm ngon ra lò. Bởi thế mà khi lớn lên đi xa xứ mưu sinh, mỗi độ Tết đến, dù đang ở đâu, lòng những người con luôn hướng về quê nhà, về nguồn cội.

Bánh chưng xanh của người Việt trở thành món ẩm thực truyền thống không thể thiếu trong ngày Tết. Nhiều người Việt ở nước ngoài không có điều kiện về quê ăn tết cũng đã ngồi bên nhau, xúng xính chuẩn bị nguyên liệu và gói bánh. Bởi vậy mới nói, từ khâu gói bánh đến luộc bánh chưng đều thể hiện sự sum vầy, đầm ấm: gói bánh gói cả yêu thương.

Bánh chưng dâng lên ông bà tổ tiên, có mặt trong dịp dỗ Tổ mùng 10 tháng 3 và nhiều dịp tế tế quan trọng. Đó là lòng biết ơn của con cháu đối với tổ tiên, gợi nhớ truyền thống dựng nước giữ nước của những bậc anh hùng dân tộc. Bánh chưng có thể có ở nhiều nơi nhưng món bánh chưng xanh vuông vức gói lá dong chỉ có ở Việt Nam, thể hiện lòng tự tôn, tự hào dân tộc.

Ở một tầng nghĩa cao hơn nữa, bánh chưng còn gắn liền với nền văn minh lúa nước của người Việt. Từ ngàn đời nay, cây lúa đã gắn bó và trở thành cây lương thực quan trọng. Lúa mang cả ý nghĩa vật chất và tinh thần, thể hiện sự no đủ, bởi vật mà vạn vật trong trời đất không có gì quý bằng gạo. Vì vậy mà nguyên liệu chính của bánh chưng là hạt gạo.

Gói bánh chưng là ghém một nền văn hóa, văn minh lúa nước truyền thống lâu đời của người Việt, là gửi gắm mong muốn, hy vọng của người dân về một năm mới an khang thịnh vượng, vạn vật sinh sôi, mùa màng bội thu.

Khi xã hội ngày càng phát triển, đời sống vật chất và tinh thần càng no đủ, tươm tất, mâm cỗ ngày Tết của người Việt càng trở nên phong phú, hấp dẫn. Thế nhưng, bánh chưng vẫn là một món bánh cổ truyền không thể thiếu. Hơn cả một món ăn thông thường, bánh chưng là bản sắc văn hóa, là nét đẹp ẩm thực, là văn minh lâu đời của dân tộc Việt Nam. Đó còn là tình yêu thương, gắn kết giữa cho người với con người được truyền tụng từ quá khứ đến hiện tại và mãi mãi về sau.

Tham Khảo Bài ? Kể Về Ngày Tết Của Gia Đình Em, Quê Em ❤️️15 Bài Văn Hay

Thuyết Minh Về Cách Làm Bánh Chưng Ngày Tết Đặc Sắc – Bài 6

Thuyết Minh Về Cách Làm Bánh Chưng Ngày Tết Đặc Sắc sẽ gợi ý cho các em thêm nhiều ý văn hay để hoàn thiện bài văn của mình tốt nhất.

Từ bao đời nay, bánh chưng luôn là món ăn thân thuộc trong bữa cơm của gia đình Việt mỗi dịp tết đến, xuân về. Đây là món ăn có bề dày lịch sử lâu đời trong thực đơn ẩm thực của đất nước ta. Bánh chưng còn được dùng để cúng gia tiên thay cho lời biết ơn sâu sắc của mỗi người con nhớ về nguồn cội, là lời cảm tạ trời đất đã phù hộ cho một năm mưa thuận gió hòa. Bánh chưng thực sự là món bánh có ý nghĩa và giá trị vô cùng to lớn.

Bánh chưng luôn được biết đến là loại bánh truyền thống của dân tộc Việt thể hiện lòng biết ơn sâu sắc của con cháu đối với thế hệ cha ông đi trước. Bánh chưng đã có nguồn gốc từ lâu đời. Người ta tương truyền rằng vào đời vua Hùng thứ 6 sau chiến thắng đánh đuổi giặc Ân xâm lược thì nhà vua có ý muốn truyền ngôi lại cho các con. Nhân dịp đón xuân sang, vua Hùng gọi các hoàng tử lại và có ra yêu cầu các hoàng tử đem dâng lên vua cha thứ mà họ cho quý giá nhất dùng để cúng lên bàn thờ tổ tiên nhân dịp đầu xuân, năm mới.

Đây như là một thử thách quyết định ai sẽ là người kế nhiệm ngôi vua nên các hoàng tử đua nhau tìm kiếm những của ngon, vật lạ trên trời, dưới biển để dâng lên vua cha. Trong đó có một người con trai thứ 18 của vua Hùng là Lang Liêu, một con người hiền lành, sống gần gũi với người dân lao động nghèo khổ nên lo lắng không biết có thứ gì quý để có thể dâng lên nhà vua. Một đêm, Lang Liêu nằm ngủ thì mộng thấy có vị thần chỉ cho cách làm một loại bánh làm bằng lúa gạo và những thứ có sẵn gần gũi với con người hàng ngày.

Tỉnh dậy, ông sai người đi chuẩn bị các nguyên liệu tươi, ngon, chọn lọc kỹ lưỡng để làm món bánh này. Đến ngày như đã hẹn, các hoàng tử nô nức dâng lên bàn thờ mâm cao cỗ đầy, đủ tất cả các sơn hào hải vị nhưng riêng mâm cỗ của Lang Liêu thì chỉ có hai loại bánh nhìn rất đơn giản.

Vua thấy lạ nên bèn hỏi và được Lang Liêu giải thích về ý nghĩa món bánh này. Vua nếm thử, thấy bánh ngon, lạ và có ý nghĩa sâu sắc nên đã đặt tên cho món bánh của Lang Liêu là bánh chưng và bánh dày rồi truyền ngôi lại cho hoàng tử Lang Liêu. Kể từ ngày đó, bánh chưng ra đời và hiện diện trong mâm cỗ tết của mỗi gia đình Việt cho đến nay.

Để làm một chiếc bánh chưng ngon thì khâu chuẩn bị nguyên liệu rất quan trọng. Nguyên liệu để làm nên bánh rất đơn giản, quen thuộc và dễ tìm bao gồm: gạo nếp, đỗ xanh, thịt ba chỉ, hành và một số gia vị tẩm ướp như muối, hạt tiêu,… Người xưa dùng lá dong để gói, lá để gói bánh không quá non cũng không được quá già. Lá phải có còn lành lặn, không bị rách, không bị héo và có màu xanh đậm. Lá dong sau khi được chọn sẽ đem đi rửa sạch với nước.

Khi rửa nên đặt lên cái mâm và dùng giẻ lau sạch hai mặt để tránh làm lá bị rách. Lá rửa xong đem phơi khô cho ráo nước, nên phơi lá nơi râm mát cho hơi héo để khi gói dễ hơn, tránh lá quá giòn dễ gãy lá. Về gạo nếp, để bánh ngon và dẻo thì chúng ta nên chọn loại gạo nếp nương.

Gạo nếp mua về sàng qua, nhặt hết sạn đem đi ngâm trước 8 tiếng, khi nào chuẩn bị gói thì vớt gạo ra để ráo nước và xóc cùng với một ít muối. Thịt lợn nên chọn phần ba chỉ vừa có cả mỡ cả nạc, nếu chỉ chắc nạc thì khi ăn bánh sẽ rất khô thiếu vị béo ngậy của mở nhưng nếu mỡ quá nhiều thì khi ăn rất nhanh ngán.

Thịt lợn được đem rửa sạch, cắt thành những miếng dài, ướp gia vị gồm muối ăn hoặc mắm, hạt tiêu cùng hành khô băm nhỏ. Đậu xanh lựa những hạt đều, có màu vàng đậm. Đậu đem đi vo sạch, đun nhừ rồi vo lại thành những cục tròn để làm nhân. Bên cạnh đó, lạt buộc bánh chưng cũng là một thứ cần chuẩn bị, lạt thường dùng lạt giang được làm từ ống cây giang. Lạt có thể được ngâm nước muối hay hấp qua cho mềm trước khi gói. Tất cả được chuẩn bị và bày sẵn chờ người gói.

Sau quá trình chuẩn bị sẽ chuyển sang giai đoạn gói bánh, giai đoạn rất cần sự tính toán và đôi bàn tay khéo léo của người gói để bánh sau khi luộc được mềm, ngon, đẹp và không bị phèo nếp ở các góc. Đầu tiên lá được trải lên mâm đong một bát gạo đầy đổ vào, dàn đều rồi đổ tiếp nửa bát đỗ, xếp thịt vào trong, tiếp đến đổ thêm nửa bát đỗ lên và cho thêm 1 bát gạo nữa.

Ta gạt cho gạo che kín đỗ và thịt rồi nhẹ nhàng bẻ bốn góc cho lá vuông các góc và siết chặt các dây lạt thì đã có một chiếc bánh chưng hoàn thiện. Buộc lạt phải thật chắc tay để khi buộc bánh không bị bung và bánh sẽ để được lâu ngày hơn. Nếu không phải là người quá khéo léo thì nên dùng khuôn để gói thì bánh sẽ đều, đẹp và dễ gói hơn.

Bánh sau khi gói xong được xếp ngay ngắn vào nỗi, đổ ngập nước và nhen lửa cháy vừa đủ để bánh được chín đều. Nếu đun bánh với lửa quá to sẽ khiến cho bánh dễ bị nhão bên ngoài nhưng phần nhân và gạo bên trong thường bị sống, khi ăn sẽ mất đi vị ngon, dẻo của miếng bánh. Bánh thường được nấu thời gian từ 8 đến 10 tiếng tùy thuộc vào lượng bánh trong nồi, cách vài tiếng cần thay nước để bánh có thể xanh ngon hơn và sau đó ta ngồi đợi nồi bánh chưng thơm lừng chín.

Đôi lúc nên kiểm tra để tiếp nước kịp thời tránh để nước cạn quá. Những lúc ngồi canh nồi bánh, mọi người thường quây quần rủ rỉ nhau nghe về một năm đã qua và những kế hoạch cho năm mới đến. Cảm giác vun vầy bên nồi bánh thật ấm áp biết bao.

Giai đoạn cuối cùng là vớt bánh ra sau khi bánh chín, bánh được thả vào chậu nước lạnh để bánh được săn hơn và mang đi ra ép cho bớt nước với bánh chưng vuông, với bánh chưng dài thì sẽ dùng rơm để lăn bánh tạo thêm độ dền nhất định, chỉnh lại cho đẹp đặt vào đĩa trang trọng dâng lên bàn thờ để thắp hương cho ông bà, tổ tiên.

Bánh chưng thực sự có ý nghĩa lớn lao đối với mỗi người con đất Việt, là món ăn quen thuộc hiện diện trong đời sống văn hóa ẩm thực cũng như văn hóa tâm linh của người Việt Nam. Đặc biệt, bánh chưng được dâng lên mâm cúng của ông bà tổ tiên bày tỏ lòng thành kính của của con cháu đối với ông bà, bề trên. Nếu tết mà thiếu bánh chưng thì đó thật sự là thiếu sót lớn.

Trong bữa cơm ngày tết, miếng bánh chưng thơm, dẻo hương vị của gạo nếp, ngọt của đỗ xanh, đậm đà những miếng thịt ba chỉ hòa quyện vào nhau làm cho mâm cơm ngày tết ấm áp, chan hòa không khí vui vầy, đoàn viên.

Những ngày cận tết, khi những nồi bánh sùng sục sôi là báo hiệu cho sự ấm áp của gia đình. Dù ngày nay khi có sự du nhập của rất nhiều loại bánh ngon, đẹp mắt, lạ hơn thì bánh chưng vẫn khẳng định được vị thế không loại bánh nào thay thế được của nó. Vì đây là truyền thống, văn hóa, nét đẹp của con người Việt Nam, vậy nên chúng ta hãy nâng niu, gìn giữ những chiếc bánh chưng thơm thảo này.

Xem Thêm Bài ? Thuyết Minh Về Hoa Cúc ❤️️ 15 Bài Thuyết Minh Hay Nhất

Thuyết Minh Về Một Phương Pháp Cách Làm Bánh Chưng – Bài 7

Thuyết Minh Về Một Phương Pháp Cách Làm Bánh Chưng để lại nhiều ấn tượng cho các bạn đọc với cách diễn đạt câu văn hay và hấp dẫn.

Việt Nam là đất nước đậm đà bản sắc dân tộc với các phong tục tập quán, truyền thống, lễ hội,… đều được lưu truyền sâu rộng trong nhân dân, từ đời này nối tiếp đời sau. Mỗi năm, cứ đến cận kề ngày Tết cổ truyền của dân tộc thì người người, nhà nhà đều nô nức sắm sửa chuẩn bị đón tết và không quên gói những chiếc bánh chưng vuông vắn chứa đựng hương vị đầm ấm, sum vầy. Có thể nói nếu thiếu hương vị bánh chưng thì ngày tết cũng mất đi một phần giá trị truyền thống của nó.

Bánh chưng có từ bao giờ cũng không ai biết rõ nhưng theo sự tích kể lại, vào những năm vua Hùng thứ sáu, sau khi đánh đuổi giặc Ân, vua có ý truyền ngôi cho con nên ban lệnh: Ai tìm được món ăn ngon, có ý nghĩa nhất sẽ được truyền ngôi. Lang Liêu người con thứ mười tám, dâng lên cho vua cha món bánh chưng, bánh giầy, vua Hùng ăn thấy ngon và rất có ý nghĩa bèn truyền ngôi cho. Kể từ đó mỗi dịp tết Nguyên Đán, dân chúng lại làm món bánh này để dâng cúng tổ tiên, trời đất.

Bánh chưng là món ăn xuất hiện hầu hết trong các dịp lễ, tết hay các ngày trọng đại của mỗi gia đình. Chiếc bánh hình vuông, được gói lá xanh bên ngoài, bên trong là lớp bánh bằng gạo nếp với nhân đậu xanh, thịt lợn ba chỉ kèm theo là các gia vị hành tươi, hành củ khô, tiêu. Tất cả các nguyên liệu kết hợp rất hoà quyện tạo nên một món ăn rất hợp khẩu vị người Á Đông, ăn kèm củ kiệu (hành muối) thì món bánh lại càng thêm đậm đà hương vị.

Chiếc bánh được bao bọc bằng lớp lá xanh cũng như tình cảm yêu thương đùm bọc của gia đình, những nguyên liệu không quá cầu kỳ, lúa gạo, đậu hay thịt đều là sản phẩm của nền văn minh lúa nước cho xưa cho tới nền nông nghiệp hiện đại ngày nay. Có lẽ thế, mà chiếc bánh như biểu tượng của đất, là một hoá thân của mẹ thiên nhiên tạo thành. Trong tâm thức mỗi người Việt, chiếc bánh gói ghém biết bao tình cảm thân thương, sự sum vầy, đoàn tụ của gia đình.

Chúng ta khá dễ dàng để lựa chọn được nguyên liệu vừa ngon mà giá cả lại rất bình dân. Chủ yếu là gạo nếp, nên chọn những hạt tròn đều, có màu sắc trắng ngà, không bị ẩm mốc hay đã đã để quá lâu vì như thế hạt gạo không còn giữ nguyên được mùi thơm lừng của nếp mới. Đậu xanh thì nên chọn những hạt đều, có màu vàng đậm.

Thịt lợn lựa miếng có cả phần nạc và mỡ, nếu chỉ có nạc thì bánh khi ăn sẽ rất khô và thiếu đi vị béo ngậy của mỡ, những nếu tỉ lệ mỡ quá nhiều thì khi ăn sẽ rất nhanh ngán và hương vị cũng sẽ giảm đi rất nhiều. Sau khi chọn xong nguyên liệu, ta tiến hành vo gạo qua vài nước và ngâm tầm hai đến ba giờ cho hạt gạo nở đều, như vậy khi nấu bánh sẽ nhanh chín hơn. Đậu xanh vo sạch, đun đến khi nhừ rồi vo lại thành những cục tròn để làm nhân.

Thịt lợn rửa sạch, cắt thành những miếng dài, ướp với một chút nước mắm, hành khô băm nhỏ cùng với một vài muỗng tiêu. Ta có thể cho thêm vào nhân những củ hành tươi cắt khúc. Một nguyên liệu cuối cùng không thể thiếu là lá gói, người ta hay dùng lá dong là chủ yếu, có một số vùng lại dùng lá chuối.

Tuy nhiên, dù là loại lá nào thì cũng phải chọn những lá có màu xanh thẫm, không bị rách nát, loại bỏ những lá có màu úa vàng khi gói chiếc bánh hình thức sẽ không được bắt mắt, nếu lá có màu xanh nhạt là chưa đủ độ già khi gói sẽ rất dễ rách. Đem lá đi rửa nhẹ nhàng qua vài lần nước, sau đó phơi ngoài nắng cho lá ráo và hơi héo đi, lúc gói sẽ dễ dàng hơn và hạn chế được việc bị rách lá.

Khó nhất có lẽ ở công đoạn bắt tay vào gói bánh, nó đòi hỏi rất nhiều sự tỉ mỉ, kiên trì và khéo léo của người gói. Những người mới tập gói hay những người không có nhiều thời gian thì họ thường dùng khuôn để gói, chiếc bánh được gói ra sẽ vuông vắn và rất đẹp, tuy nhiên không chắc tay và không thể để được lâu. Khi gói không dùng khuôn thì đòi hỏi người gói phải có kinh nghiệm và sự khéo léo vô cùng.

Xếp lá gói xong xuôi, đổ một lớp gạo, để lớp nhân đậu xanh thịt lợn vào trong, tiếp đến là một lớp gạo bên trên, người thợ bắt đầu gập từng cạnh của lá chuối, nắn cho bánh có hình dạng cân đối, buộc lạt sao cho chắc tay, để khi luộc bánh không bị rịa và để được lâu. Nếu gói bánh không chắc tay, bánh chỉ để được vài ngày sẽ bị hỏng ngay. Bánh được xếp vào nồi cho ngay ngắn, đổ nước ngập và đun bằng ngọn lửa cháy vừa đủ, để bánh có thể chín từ trong ra ngoài.

Đun bánh với ngọn lửa quá lớn, sẽ khiến bánh bị nhão phần gạo bên ngoài, nhân và gạo bên trong sẽ rất dễ bị sống, khi ăn sẽ không còn giữ được vị dẻo của nếp, vị bùi và ngậy của nhân. Thông thường người ta thường nấu bánh từ tám đến chín tiếng tuỳ vào kích thước của bánh. Khi bánh chín mùi lá dong thơm lừng hoài quyện với nếp dẻo thật là hấp dẫn vị giác.

Tuy không phải là một món ăn xa xỉ, khó kiếm nhưng với ý nghĩa cổ truyền, chứa đựng biết bao tình cảm thương yêu mà bánh chưng thường được mang làm quà biếu như là cách biểu lộ lòng thành, sự chúc phúc vẹn tròn.

Chiếc bánh chưng là món ăn không thể thiếu trong ngày Tết cổ truyền. Bánh dùng để cúng gia tiên như lời biết ơn sâu nặng của con cháu nhớ về cội nguồn, là lời cảm tạ đất trời cho một năm mưa thuận gió hoà. Trong những ngày đầu năm mới, gia đình ngồi bên nhau cùng thưởng thức những món ăn thật ngon, không thể thiếu đĩa bánh chưng thơm ngon, tuyệt vời, và kể cho nhau nghe về những câu chuyện năm cũ, những ước nguyện cho năm mới đang tới

Chia Sẻ Bài ? Thuyết Minh Về Chiếc Nón Lá ❤️️15 Bài Văn Về Cái Nón Lá Hay

Thuyết Minh Về Phương Pháp Cách Làm Bánh Chưng Ngắn – Bài 8

Thuyết Minh Về Phương Pháp Cách Làm Bánh Chưng Ngắn để lại nhiều ấn tượng cho các bạn đọc dưới đây, cùng đón đọc ngay nhé!

Ẩm thực Việt Nam không chỉ đặc sắc trong hương vị, nguyên liệu mà còn chứa đựng tinh hoa của sự khéo léo cũng như văn hóa lối sống, tâm hồn người Việt. Dân gian có đôi câu đối: “Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ/ Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh”.

Nhắc đến tết cổ truyền, chắc hẳn mỗi người Việt Nam, dù đang ở trên chính mảnh đất quê cha hay đang ở nơi đất khách quê người cũng không thể quên được thức bánh dẻo thơm bùi của đỗ xanh, dẻo ngọt của gạo nếp, béo ngậy của thịt mỡ của bánh chưng – thức bánh hình vuông ẩn chứa những ý niệm sâu sắc về văn hóa dân tộc.

Sự ra đời của bánh chưng gắn liền với truyền thuyết “Bánh chưng, bánh giầy” cùng sự kiện vua Hùng Vương đời thứ sáu chọn người nối ngôi. Giữa muôn vàn sơn hào hải vị, cặp bánh chưng bánh giầy đã đem đến chiến thắng cho hoàng tử Lang Liêu. Nếu bánh giầy thon dài với hình tròn tượng trưng cho trời thì bánh chưng lại là ý niệm ẩn dụ của mặt đất với hình dáng vuông vức.

Là một món ăn thể hiện rõ đặc trưng của nền ẩm thực Việt Nam, nguyên liệu làm ra bánh chưng cũng hết sức dân dã. Vỏ ngoài của bánh được tạo nên từ những chiếc lá dong xanh tươi, lành lặn và gân chắc cùng những sợi dây lạt giang trắng phau, mảnh nhỏ và mềm mại. Còn bên trong bánh là những nguyên liệu quen thuộc như thịt ba chỉ, đỗ xanh, hành cùng một số gia vị đơn giản khác như muối trắng, hạt tiêu,…

Sau khi đã chuẩn bị đầy đủ những nguyên liệu trên, bàn tay khéo léo của con người sẽ sơ chế nguyên liệu và lần lượt thực hiện các công đoạn gói bánh, nấu bánh. Lá dong có nhiệm vụ bao bọc và ảnh hưởng đến màu sắc của chiếc bánh chưng nên cần được chọn lọc với sắc xanh mướt, sau đó rửa sạch sẽ những bụi bặm và vết bẩn, dùng khăn lau khô hoặc để ráo nước. Gạo nếp là thành phần quan trọng nhất của chiếc bánh nên cần đảm bảo những yêu cầu như hạt to, đều hạt, tròn và thơm dẻo.

Trước khi gói bánh, những hạt gạo này sẽ được ngâm cùng nước trong khoảng thời gian nhất định, thường kéo dài từ 12 tiếng đến 14 tiếng. Đỗ xanh sau khi được xay hoặc giã vỡ đôi, người làm bánh sẽ ngâm trong nước ấm với nhiệt độ thường ở mức 40 độ C để hạt đỗ trở nên mềm hơn và sau đó đãi sạch vỏ đỗ, chỉ giữ lại sắc tươi vàng ươm. Về nhân thịt của bánh chưng, loại thịt thường được sử dụng là thịt ba chỉ vừa nạc vừa mỡ cắt thành từng miếng, ướp cùng những gia vị như hành khô, hạt tiêu để gợi dậy mùi thơm và hương vị.

Để tạo ra một chiếc bán với hình thù vuông vức, gói bánh là công đoạn hết sức quan trọng. Sau khi trải lá dong, người gói có thể sử dụng khuôn để tạo nên bốn góc vuông cân xứng, hài hòa. Và lần lượt các nguyên liệu khác được sắp xếp theo thứ tự: gạo nếp ở ngoài, đỗ xanh, thịt lợn ở bên trong, và đổ thêm gạo nếp để lấp đầy chiếc bánh.

Quá trình này đòi hỏi người gói bánh cần tỉ mỉ và khéo léo. Sau đó, những chiếc bánh tươi tắn, vuông vức được xếp vào nồi, đổ nước vào luộc trong vòng 10 – 12 tiếng để bánh chín đều và dẻo thơm. Trong lúc luộc bánh, những thành viên trong gia đình thường quây quần bên bếp lửa để kể cho nhau nghe những câu chuyện về năm cũ.

Vào mỗi dịp Tết đến xuân về, bánh chưng luôn là yếu tố không thể thiếu và mang trong mình những ý niệm về sự tưởng nhớ công ơn và lòng thành kính đối với những người đã khuất. Đồng thời, chiếc bánh vuông vắn tượng trưng cho mặt đất thể hiện mong ước về một cuộc sống trọn vẹn và ấm no. Hơn hết, nó còn là biểu tượng cho thành tựu văn minh nông nghiệp của dân tộc ta.

Bánh chưng vuông tượng trưng cho mặt đất, xanh màu lá dong có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong tâm thức con người Việt Nam. Bánh chưng, hơn cả một món ăn – đó còn là bản sắc dân tộc, là nét đẹp ẩm thực truyền thống ngàn đời nay còn lưu giữ.

Đọc Thêm Bài ? Thuyết Minh Chiếc Nón Lá Lớp 9 ❤️️15 Bài Mẫu Về Cái Nón Hay

Thuyết Minh Về Cách Gói Bánh Chưng Ấn Tượng – Bài 9

Cùng tham khảo bài văn Thuyết Minh Về Cách Làm Bánh Chưng Ấn Tượng được chia sẻ sau đây.

Ngày xửa ngày xưa vua Hùng muốn nhường lại ngôi vua của mình cho các con nên đã truyền cho hoàng tử nào dâng lên vua những vật có ý nghĩa và lạ nhất thì có thể thay vua trị vị đất nước. Khi ấy Lang Liêu đã làm ra hai loại bánh trong đó có bánh chưng tượng trưng cho trái đất. Và khi bánh chưng có từ ngày đó, loại bánh này có ý nghĩa gì mà con người Việt Nam chúng ta lại coi nó là một trong ba đồ sử dụng trong ngày tết?.

Về truyền thuyết của bánh chưng thì chúng ta biết nó ra đời trong sự kiện vua Hùng Vương nhường ngôi cho các con trai của mình. Ông vua ấy đã truyền lệnh cho tất cả những người con mang đến những lễ vật. Không giống như những anh trai mang vàng bạc châu báu mà người con út của Vua Hùng lại dâng lên vua cha hai loại bánh là bánh chưng và bánh dày. Bánh chưng có từ đó để tượng trưng cho trái đất hình vuông.

Đến ngày nay thì nhân dân ta đã sử dụng bánh chưng vào ngày tết giống như một truyền thống đặc trưng. Vật liệu để làm bánh chưng bao gồm lá dong, gạo nếp đã ngâm nở ra, đỗ ngâm bỏ vỏ, thịt lợn, lạt. Tất cả những vật liệu ấy đều không thể thiếu được.

Về cách gói bánh thì nhân dân ta thường gói bánh theo hai hình là hình vuông truyền thống và hình tròn dài. Theo cách gói bánh vuông truyền thống nếu muốn cho bánh đẹp vuông vắn thì lá dong phải to và dài, xếp hai lá lên nhau đổ một lớp gạo xuống sau đó là một ít đỗ bên trên tiếp đến là miếng thịt đã ướp gia vị và cuối cùng là một lớp đỗ và gạo đỗ lên trên cùng. Công đoạn nguyên liệu bên trong đã đủ thì chúng ta gấp các lá bánh lên sao cho vuông vắn và ôm sát vào những nguyên liệu bên trong.

Khi này chúng ta phải lấy tay ấn thật chặt cho gạo đỗ đỗ đầy vào những chỗ hở để tạo thành một hình vuông vắn. Khi đã có một khối vuông vắn thì chúng ta phải lấy những chiếc lạt buộc cố định lại để đem đi luộc. Còn đối với bánh tròn dài thì cũng tương tư nhưng cần đến lá dài hơn buộc bánh theo hình dài chứ không nén chặt theo hình vuông.

Thường nhân dân ta hay gói bánh chưng vào những ngày cuối năm như 29 hoặc 30 để đón năm mới hay cùng nhau trông bánh chưng chờ giao thừa qua. Những nồi bánh ấm nồng cùng với sự sum họp quây quần của anh chị em bên nhau như xua tan đi mọi cái giá lạnh đầu mùa xuân. Mọi người không còn những ưu tư phiền muộn mà chỉ còn khoảnh khắc hạnh phúc bên nhau mà thôi.

Bánh chưng trong ngày tết có những ý nghĩa rất lớn. Tuy khoa học đã chứng minh rằng trái đất không phải là hình vuông như người xưa trong truyền thuyết nói nhưng qua bánh chưng ấy người Việt ta bày tỏ những tấm lòng nhớ về người xưa tổ tiên ông bà đã sáng tạo và để lại loại bánh có ý nghĩa ấy. Không những thế nó được sử dụng trong ngày tết vì nó có sự đầy đủ của nhiều thứ nguyên liệu và có vị ngon hấp dẫn. Chính vì thế mà nó không thể nào vắng mặt trong ngày tết truyền thống của nhân dân ta.

Không những thế mà bánh chưng còn để thắp hương thờ cúng ông bà tổ tiên trong những ngày tết. Nhân dân ta sẽ chọn những chiếc bánh đẹp nhất để có thể đem lên bày trên bàn thơ ông bà với những món hoa quả bánh kẹo trên đó. Bánh chưng còn làm cho mọi người sum họp gần gũi nhau hơn và có một cái tết ấm lòng không. Anh chị em quây quần bên nhau cùng gói bánh cùng nói chuyện cười vui tươi chào mừng năm mới đến. Không kể lúc luộc bánh tất cả cùng ngồi trông bánh bên ngọn lửa hồng.

Đặc biệt bánh ăn nóng rất ngon tuy nhiên khi nó nguội rồi nhân dân ta còn có thể cắt chúng ra từng miếng nhỏ đem rán lên ăn rất là ngon và thơm. Những người không ăn được mở thì cũng có thể ăn được bởi vì khi ninh nhừ như thế rồi thì thịt mỡ không còn ngáy như khi luộc bình thường nữa mà nó rất dễ ăn.

Tóm lại bánh chưng có ý nghĩa rất lớn trong đời sống cũng như tình cảm của nhân dân ta trong ngày tết truyền thống. Và từ khi xuất hiện cho đến ngày nay bánh chưng như khẳng định sự thơm ngon hấp dẫn cùng với những ý nghĩa của mình. Vì vậy bánh chưng không thể vắng mặt trong gia đình Việt nam ngày Tết.

SCR.VN Tặng Bạn ? Thuyết Minh Về Hoa Sen ❤️️ 15 Bài Giới Thiệu Hay Nhất

Thuyết Minh Về Phong Tục Gói Bánh Chưng Ngày Tết – Bài 10

Thuyết Minh Về Phong Tục Gói Bánh Chưng Ngày Tết giúp các em có thêm nhiều kiến thức hay về loại bánh ý nghĩa này.

Tết đến, xuân về, khắp mọi nẻo đường mọi người tấp nập đi mua sắm nào đào, quất, bánh kẹo và không quên chuẩn bị nguyên liệu để làm món bánh chưng – món bánh truyền thống của dân tộc.

Đã từ lâu, bánh chưng là thứ không thể thiếu vào ngày Tết của mỗi gia đình. Từ xa xưa, trong câu chuyện về các vua Hùng, bánh chưng được coi là thứ tượng trưng cho đất, thể hiện sự biết ơn của con người gửi tới tổ tiên, các vị thần với ước mong mùa màng bội thu. Nguyên liệu để làm bánh chưng cũng khá đơn giản: gạo nếp, đỗ xanh, thịt mỡ, lá dong và lạt để buộc.

Tuy nhiên, để gói được một chiếc bánh chưng ngon, đẹp mắt thì không đơn giản chút nào. Gạo để làm bánh chưng phải là gạo nếp ngon, hạt to và dẻo, thông thường người ta thường làm bằng gạo nếp Điện Biên, đó là loại gạo ngon đặc trưng. Gạo được đãi qua nước, sau đó để ráo và chúng ta trộn thêm vài hạt muối để khi bánh chín có vị đậm đà. Chúng ta chọn đỗ xanh là nguyên liệu để làm nhân bánh cùng với thịt lợn.

Đỗ xanh cũng phải được làm rất cẩn thận để không lẫn các viên sạn, còn thịt lợn thì chúng ta chọn thịt ba chỉ có cả mỡ và nạc sẽ mang lại vị béo cho nhân bánh. Riêng thịt để làm nhân bánh chúng ta thường thái miếng dài và ướp thêm gia vị: nước mắm, hạt tiêu để thêm vị đậm đà và thơm ngon.

Điều đặc biệt của bánh chưng là được gói bằng lá dong, trước khi gói lá phải được rửa sạch và để ráo nước. Sau đó chúng ta cắt bỏ cuống lá và sống lưng để lá bớt cứng và dễ gói. Lạt buộc bánh chưng thường dùng từ ống cây giang. Lạt có thể được ngâm muối hay hấp cho mềm trước khi gói.

Khi làm bánh, chúng ta cần chuẩn bị nguyên liệu một cách cẩn thận và kỹ lưỡng. Ta đặt lạt xuống trước, sau đó xếp lá dong lên, tùy người gói mà chúng ta dùng 2,3 lá hoặc nhiều hơn, có người dùng khuôn để bánh vuông hơn và các nguyên liệu hòa quyện với nhau hơn, nhưng có người thì chỉ cần dùng tay để gói bánh cũng vẫn đẹp mắt và ngon. Khi trải lá dong ra, chúng ta lần lượt cho các nguyên liệu vào, dưới cùng là lớp gạo sau đó là lớp đỗ xanh, thịt lợn và trên cùng lại là một lớp gạo.

Lượng nguyên liệu gói bánh cũng phụ thuộc vào từng người gói. Tuy nhiên, lượng gạo phải đủ để phủ kín nhân bên trong. Sau khi cho đầy đủ các nguyên liệu, chúng ta dùng lạt buộc lại chắc chắn. Như vậy là chúng ta đã tự tay gói được một chiếc bánh chưng hoàn chỉnh. Công đoạn cuối cùng là luộc bánh. Thời gian luộc bánh phụ thuộc vào số lượng bánh nhiều hay ít nhưng thông thường từ 8 – 12 tiếng. Lửa nấu bánh không nên cháy to quá, vì như vậy bánh sẽ chín không đều, ta nên đun với lượng nhiệt vừa phải.

Bánh chưng là biểu tượng của ngày Tết cổ truyền, chúng ta dùng bánh chưng để thắp hương cho tổ tiên như một truyền thống “uống nước nhớ nguồn”. Khoảnh khắc cả gia đình ngồi quây quần bên nồi bánh chưng thật đầm ấm và quây quần. Dù cuộc sống có hiện đại, con người thích thưởng thức những món ăn lạ nhưng sẽ không ai quên được những món ăn truyền thống, đậm đà bản sắc dân tộc và mang lại không khí gia đình ấm áp đặc biệt là những dịp lễ, Tết.

Tham Khảo Bài ? Thuyết Minh Về Một Loài Cây Cối Em Yêu ❤️️15 Mẫu Hay Nhất

Bài Thuyết Minh Cách Làm Bánh Chưng Ngày Tết Điểm Cao – Bài 11

Bài Thuyết Minh Về Cách Làm Bánh Chưng Ngày Tết Điểm Cao sẽ giúp các em có thêm nhiều ý tưởng mới và thú vị để hoàn thiện bài văn của mình.

Ẩm thực Việt Nam phong phú và đa dạng hơn từng ngày, nhưng có lẽ người Việt chúng ta sẽ không bao giờ quên được món bánh truyền thống của dân tộc vào mỗi dịp Tết xuân về – bánh chưng. Bánh chưng không chỉ là một món ngon bổ dưỡng mà còn là một món ăn mang đậm hương vị dận tộc, quê hương.

Để có thể gói được một chiếc bánh chưng, nguyên liệu cần chuẩn bị vô cùng đơn giản, trong đó không thể thiếu là lá bánh. Lá để gói bánh có thể là lá dong hoặc lá chuối nhưng gói bánh bằng lá dong sẽ giúp bánh thơm và xanh hơn. Tiếp đến là lạt buộc được chẻ khéo léo từ cây tre bánh tẻ (cây tre không quá non hay quá già), giúp cho việc buộc bánh được dẻo dai và chắc. Một trong những nguyên liệu quan trọng nhất là gạo.

Gạo làm bánh phải là gạo nếp thơm, hạt tròn đều, chắc mẩy, giúp cho bánh thêm dẻo và mang trọn hương vị đồng quê. Đỗ xanh, thịt lợn cũng là những nguyên liệu không thể thiếu. Thịt lợn thường được dùng là loại thịt ba chỉ, lí do dùng loại thịt này là bởi khi ăn, bánh sẽ có độ béo vừa phải. Ngoài ra, bánh chưng còn có thêm một số loại gia vị như muối, hạt tiêu… Tất cả sẽ góp phần tạo nên một món ăn truyền thống đặc biệt và khó quên.

Quy trình gói một chiếc bánh chưng đòi hỏi sự cẩn thận và khéo léo. Lá bánh sẽ được rửa sạch và phơi khô cho ráo nước, sau đó tước bỏ phần cuống cứng để không làm rách lá khi gói. Đỗ và gạo được vo rồi ngâm thật kĩ, nhặt bỏ những hạt bị hỏng, sau đó để ráo nước. Thịt lợn có thể được ướp gia vị như muối và hạt tiêu cho mùi vị thêm hấp dẫn. Sau khi khâu chuẩn bị đã hoàn tất sẽ đến quy trình gói bánh. Bánh có thể gói bằng tay hoặc khuôn cho vuông vắn.

Lá bánh được xếp so le lên xuống, rồi người ta bắt đầu đổ miệng bát gạo san đều, tiếp đến là một bát đỗ rồi đặt thêm hai miếng thịt, tiếp tục rải đỗ và gạo chồng lên. Gói bánh phải thật khéo tránh để gạo và đỗ rơi ra ngoài. Chiếc bánh được cố định bằng lạt. Bánh gói xong được đem luộc trong thời gian khoảng 10-12 tiếng. Bánh sau khi vớt ra khỏi nồi phải để một ngày cho bánh ráo nước và bớt dính, sau đó có thể sử dụng.

Bánh chưng là một món ăn đặc trưng của chúng ta, luôn luôn được sử dụng vào dịp lễ Tết, là một món ăn mang đậm nét đẹp văn văn hóa dân tộc. Dù có đi đâu hay làm gì thì vào mỗi dịp Tết, trong mỗi gia đình Việt Nam cũng không thể thiếu món bánh chưng để cúng ông bà Tổ Tiên.

Dù hiện nay có muôn vàn loại bánh ngon nhưng bánh chưng vẫn mãi là món ăn không thể thiếu trong mâm cơm ngày Tết. Là một người con Việt Nam mỗi chúng ta nên giữ gìn món bánh cổ truyền ấy.

Đọc Thêm Bài ? Thuyết Minh Về Cây Bưởi, Quả Bưởi ❤️️ 15 Bài Hay Nhất

Hãy Thuyết Minh Về Cách Làm Bánh Chưng Ngày Tết – Bài 12

Hãy Thuyết Minh Về Cách Làm Bánh Chưng Ngày Tết là đề tài rất quen thuộc trong chương trình học cũng như các đề thi cuối kì.

Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có một nền văn hóa đặc trưng, một nền ẩm thực độc đáo. Đối với đất nước Hàn quốc có kim chi cùng với những loại rau muối khác. Hay Pháp nổi tiếng với những món bánh cupcake thơm ngậy. Ẩm thực là một nét văn hóa đặc trưng mà không quốc gia nào có được. Ẩm thực cũng là một đặc điểm thu hút du khách. Ẩm thực Việt trong con mắt du khách luôn tạo một sự hứng thú và tò mò. Một trong những điểm thu hút khách du lịch tại Việt Nam chính là nền ẩm thực ấy.

Ẩm thực Việt rất phong phú và đa dạng, được chia ra nhiều thể loại khác nhau. Nổi bật có ẩm thực truyền thống, ẩm thực vùng miền, ẩm thực cung đình, ẩm thực đường phố… Mỗi loại lại có nét riêng. Đối với ẩm thực truyền thống, có một món ăn mà không thể không kể đến đó chính là bánh chưng.

Là một món ăn truyền thống của người Việt, bánh chưng (bánh tét) được ví như linh hồn của bữa cơm ngày trọng đại, đặc biệt là ngày tết. Bánh chưng được người Việt sáng tạo ra gắn liền với sự tích bánh chưng bánh giầy. Sự tích liên quan đến một vị vua Hùng đời thứ sáu. Ông đã nghĩ ra cách chế biến bánh chưng và bánh giầy để dâng lên vua cha và được nhường ngôi. Từ đó đến nay, bánh chưng đã trở thành món ăn quen thuộc của các gia đình mỗi dịp tết đến xuân về. Bánh chưng được làm một cách khá cầu kì.

Đầu tiên là chọn nguyên liệu để làm bánh. Nguyên liệu làm bánh bao gồm lá rong, gạo nếp, đỗ xanh, thịt ba chỉ, lạt buộc, một số gia vị thông thường, đặc biệt không thể thiếu hạt tiêu. Trước tiên là lá rong. Lá rong là một loại lá được trồng rất nhiều ở miền bắc Việt Nam. Lá có màu xanh đậm, gân lá vòng cung rõ ràng, thường mọc thành từng bụi. Lá to có thể dài đến 80 cm. Lá có hình quạt. Lá rong dùng để làm vỏ bánh.

Bởi tính chất dai khi nấu chín, đặc biệt là có mùi thơm và màu xanh bắt mắt, nên lá rong được chọn để làm vỏ của bánh chưng. Lá rong khi cắt hoặc mua sẽ được đem hơ qua lửa (nướng qua) hoặc phơi nắng cho mềm, tránh rách khi gói bánh. Sau đó, lá rong tiếp tục được cắt bớt cuống lá cũng như sống gân lá chính giữa và rửa sạch. Vậy là nguyên liệu để làm vỏ bánh đã sơ chế xong. Tiếp theo đến phần bánh. Đầu tiên là gạo nếp.

Gạo nếp là một loại gạo có hàm lượng amilopectin rất cao khoảng 90% chính vì vậy nó làm cho gạo nếp khi được nấu chín sẽ rất dẻo, đặc biệt có mùi thơm rất hấp dẫn. Dựa vào tính chất này nên người ta chọn gạo nếp để làm bánh chưng. Gạo nếp sẽ được ngâm trong nước khoảng 5 tiếng, sau đó vo sạch, nêm muối vừa ăn. Gạo là thế, đỗ xanh cũng được chuẩn bị kĩ càng. Đỗ xanh là loại đỗ có màu vàng tươi, rất thơm khi nấu chín. Thường người gói bánh sẽ chọn loại đỗ xanh đã bóc vỏ để tiết kiệm thời gian sơ chế.

Loại đỗ này rất dễ dàng mua được tại các siêu thị cũng như cửa hàng tạp hóa. Đỗ sau khi mua về sẽ được ngâm với nước khoảng 6 đến 7 tiếng để nở hoàn toàn. Nguyên liệu tiếp theo kể đến là thịt ba chỉ. Thịt ba chỉ sẽ được cắt miếng mỏng nhưng vuông, cạnh chừng 4 đến 5cm tùy bánh to hay nhỏ. Thịt được ướp với gia vị thông thường và hạt tiêu. Hạt tiêu sẽ giúp miếng thịt đậm đà, thấm gia vị, thơm và đặc biệt là trung hòa các vị của gia vị khác khiến cho miếng thịt không bị ngậy quá.

Nguyên liệu cuối cùng là lạt buộc. Lạt buộc được làm từ tre dẻo, thân tre chẻ mỏng rất dẻo, được mang đi ngâm nước hoặc luộc qua cho mềm dễ buộc. Lạt buộc được dùng để cố định bánh lại khi luộc. Nếu không có lạt buộc chiếc bánh không thể được hoàn tất. Sau khi sơ chế các nguyên liệu làm bánh, sẽ đến giai đoạn gói bánh.

Gói bánh chưng cần sự tỉ mỉ, cẩn thận cũng như khéo léo của người gói. Bánh sau khi gói phải vuông, lá không bị rách, không chặt quá cũng không lỏng quá. Đầu tiên, trải một lớp lá, tiếp đến là gạo nếp, lớp tiếp theo là đỗ xanh, rồi đến thịt lợn, rồi đỗ xanh, cuối cùng là gạo. Sau đó người gói sẽ dùng tay của mình gói cho lá rong bao chọn lấy phần nhân bánh, gấp cho vuông lại, cuối cùng là dùng lạt buộc cố định.

Cái khó là ở chỗ, người gói phải nới lỏng sao cho bánh vuông mà không bị chặt quá cũng hư lỏng quá. Bởi nếu chặt quá, phần bánh sẽ chín không đều hoặc dẫn đến bánh không chín được. Còn nếu lỏng quá, các lớp nguyên liệu của bánh sẽ không cố định và lẫn lộn vào nhau gây mất thẩm mĩ cũng như mất ngon. Gói bánh có được đẹp hay không là dựa vào tay nghề của người gói bánh.

Công đoạn gói bánh đã xong đến khâu cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng. Đó chính là luộc bánh. Bánh chỉ ngon khi được nấu bằng củi khô, trong một nồi gang to và dày. Nấu bánh chưng thường rất lâu, khoảng 6 tiếng đồng hồ. Bởi bánh cần được chín đều và mềm. Lửa để nấu bánh cũng không quá to lửa mà chỉ liu riu nhỏ. Bánh khi được nấu chín sẽ được để nguội định hình lại hình dạng bánh và được sắt ra đĩa để mọi người cùng thưởng thức.

Bóc vỏ bánh ra ta sẽ thất một màu xanh rất đẹp và mùi thơm hấp dẫn. Cắt bánh ra sẽ thấp từng lớp từng lớp nhân bên trong cực hấp dẫn, miếng thịt thơm béo ngậy, lớp gạo nếp chín mềm dẻo ngọt thơm lừng. Tất cả hòa quyện với nhau tạo nên một hương vị truyền thống.

Ngày xưa, bánh chưng chỉ có mặt mỗi dịp tết đến xuân về. Nhưng ngày nay, bất cứ lúc nào cũng có thể nhìn thấy hình ảnh chiếc bánh chưng. Cứ đến dịp lễ hội hoặc ngày trọng đại như cưới hỏi, bánh chưng có thể được đem vào thực đơn của mâm cơm gia đình. Bánh chưng rất nhiều chất dinh dưỡng, hàm lượng calo cao. Ngoài món bánh chưng luộc, người ta có thể biến tấu thành các món hấp dẫn khác như bánh chưng rán. bánh chưng có thể ăn kèm với những món mặn khắc để tăng thêm hương vị của món ăn.

Bánh chưng đã trở thành một nét văn hóa, một món ăn truyền thống và lâu đời ở Việt Nam. Nét độc đáo này đã góp phần làm đẹp hình ảnh Việt trong mắt bạn bè quốc tế. Dù ai xa quê cũng mong được về nhà bên nồi bánh chưng mỗi dịp giao thừa đón năm mới.

Giới Thiệu Bài ? Thuyết Minh Về Hoa Lan ❤️️ 15 Bài Thuyết Minh Hay Nhất

Thuyết Minh Về Cách Gói Bánh Chưng Ngắn Gọn – Bài 13

Thuyết Minh Về Cách Làm Bánh Chưng Ngắn Gọn, súc tích thể hiện qua từng câu văn, hình ảnh sinh động và phong phú.

Mỗi loài hoa sẽ có một hương thơm riêng, mỗi dân tộc sẽ có một bản sắc văn hóa và phong tục tập quán đặc trưng không trộn lẫn. Một trong những yếu tố tạo nên Văn hóa bản sắc dân tộc là văn hóa ẩm thực. Vâng, và chúng ta đang nói đến dân tộc Việt Nam dịu dàng và duyên dáng với chiếc áo dài duyên dáng, dưới chiếc nón lá xinh xinh và du dương trong những câu quan họ ngọt ngào nồng đượm. Chắc có lẽ bởi thế mà bánh chưng- một món ăn giản dị đã trở thành món ăn truyền thống của dân tộc ta từ bao đời nay.

Truyền thuyết kể rằng, vào thời vua hùng thứ sáu, nhà vua đã già và muốn truyền ngôi cho con nhưng chưa biết chọn ai trong số những người con trai của mình. Bởi thế, vua Hùng bèn gọi các con lại và nói rằng nếu ai tìm được món ăn ngon nhất để cúng Tiên Vương thì sẽ được nối ngôi. Các Lang nghe vua cha nói vậy, bèn kẻ lên rừng, người xuống bể tìm của ngon vật lạ, sơn hào hải vị để mang về cúng Tiên vương.

Người con thứ mười tám của nhà vua là Lang Liêu, mẹ chàng bị vua cha ghẻ lạnh đâm sinh bệnh rồi chết. Từ nhỏ, chàng đã sống ở ngoài cung vua, hòa nhịp với cuộc sống của nhân dân lao động. Chàng vốn tính tình thuần hậu, chí hiếu nhưng lực bất tòng tâm , không biết kiếm của ngon vật lạ ở đâu để dâng lễ Tiên Vương. Vào đêm trước ngày tế lễ, chàng nằm mộng thấy có người chỉ rằng:” Vật trong trời đất không có gì quý bằng gạo, là thức ăn nuôi sống con người. nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông tượng trưng cho trời đất.

Lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột để tượng hình cha mẹ sinh thành”. Lang Liêu tỉnh giấc, bèn làm theo lời thần dặn làm bánh cúng Tiên Vương và được vua hùng truyền ngôi cho. Từ đó, bánh chưng trở thành một vật không thể thiếu trong mỗi dịp lễ tết trong dân gian Việt Nam.

Bánh chưng hình vuông, được gói bằng lá rong màu xanh rất đẹp mắt. Đó là một món ăn giản dị xuất phát từ một nền văn minh lúa nước. Nguyên liệu chính để làm bánh là gạo nếp, đỗ xanh, hành củ, hạt tiêu và thịt lợn. Gạo càng ngon thì bánh sẽ càng dẻo. Thịt lợn phải là thịt ba chỉ vừa nạc vừa mỡ. Thịt quá nạc bánh sẽ bị khô và ngược lại thịt quá mỡ sẽ khiến cho bánh ăn bị ngấy, mau chán Khi gói bánh, sau một lớp gạo lè đến một lớp đỗ, nhân là thịt lợn và hành được cho ở giữa rồi tiếp tục đến một lớp đỗ, rồi một lớp gạo.

Lá dong là lá được dùng để gói bánh chưng vì có màu xanh rất đẹp và dịu, lại không làm mất đi hương vị của bánh. Khi gói phải gói thật kín, để khi luộc nước không thể vào trong, bánh mới ngon. Lạt phải buộc thật chặt, chắc nhưng phải khéo. Gói lỏng tay, bánh không ngon. Song nếu quá chắc, bánh cũng không ngon.

Độc đáo nhất là, bánh chưng được nấu trong thời gian dài, 8-10 tiếng đồng hồ. phải để lửa vừa phải, không to quá và cũng không bé quá. Tuy gọi là luộc bánh chưng nhưng nước không trực tiếp tiếp xúc với nguyên liệu được luộc (gạo nếp, đỗ, thịt lợn,…) nên là hình thức hấp hay chưng giúp giữa nguyên được vị ngon của gạo đỗ và thịt. Chắc có lẽ vì cách chế biến ấy mà người ta mới gọi thứ món ăn bổ dưỡng ấy là bánh chưng.

Thời gian luộc bánh lâu nên các hạt gạo mềm ra như quyện vào nhau, không giống như khi đồ xôi. Khi hạt gạo nhừ mà quyện vào nhau như thế người ta gọi là bánh chưng “rề”, tức là bánh chưng đó đã đạt đến độ quyện dẻo như ý, là bánh ngon. Cũng nhờ đặc điểm thời gian làm chín bánh lâu, lại trong nước sôi nên nhân bánh là đỗ hay thịt có đủ thời gian để nhừ ra, hòa quyện đan cài các hương vị vào với nhau tạo nên một món ăn hoàn chỉnh nhất. Đó phải chăng cũng là quan niệm sống hòa đồng, hòa quyện, cởi mở của dân tộc ta?

Chế biến bánh chưng không khó nhưng cần công phu tỉ mỉ và bàn tay khéo léo. Đó cũng chính là những đức tính cao đẹp của con người Việt Nam.

Xem Thêm Bài ? Thuyết Minh Về Cây Cau ❤️️ 15 Bài Thuyết Minh Hay Nhất

Thuyết Minh Cách Gói Bánh Chưng Văn Chọn Lọc – Bài 14

Thuyết Minh Về Cách Gói Bánh Chưng Văn Chọn Lọc sẽ giúp các em học sinh nâng cao cách hành văn và xây dựng những chi tiết đặc sắc, cách sử dụng từ ngữ sáng tạo.

Trong những ngày xuân đến rộn ràng, lòng người náo nức mừng dịp Tết Nguyên Đán, chúng ta lại nghĩ đến những món ăn đậm đà bản sắc dân tộc. Và bánh chưng là một món ăn không thể thiếu trong số đó.

Bánh chưng từ lâu đã là một loại bánh truyền thống của dân tộc Việt nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời xứ sở. Tương truyền rằng vào đời vua Hùng Vương thứ sáu, sau khi đánh dẹp xong giặc Ân, nhà vua có ý định truyền ngôi cho con. Nhân dịp đầu xuân, vua Hùng họp các hoàng tử lại và yêu cầu các hoàng tử đêm dâng lên vua cha thứ mà họ cho là quí nhất để cúng lên bàn thờ tổ tiên nhân ngày đầu xuân.

Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên cho vua cha, với hi vọng mình được vua cha truyền ngôi. Trong khi đó, người con trai thứ mười tám của Hùng Vương là Lang Liêu có tính tình hiền hậu, sống gần gũi với người nông dân lao động nghèo khổ nên ông lo lắng không có gì quí giá để dâng lên vua cha. Một hôm, Lang Liêu nằm mộng thấy có vị thần đến chì bảo cho cách làm một loại bánh từ lúa gạo và những thức có sẵn gần gũi với đời sống hàng ngày.

Tỉnh dậy, ông vô cùng mừng rỡ làm theo cách chỉ dạy của thần. Đến ngày hẹn, các hoàng tử đều đem thức ăn đến bày trên mâm cỗ, đủ cả sơn hào hải vị, nem công chả phượng. Hoàng tử Lang Liêu thì chỉ có hai loại bánh được làm theo lời mộng. Vua Hùng Vương lấy làm lạ bèn hỏi, thì được Lang Liêu đem chuyện thần báo mộng kể, giải thích ý nghĩa của bánh. Vua cha nếm thử, thấy bánh ngon, khen có ý nghĩa, bèn đạt tên cho bánh là bánh chưng và bánh dày rồi truyền ngôi vua lại cho Lang Liêu.

Cách thức làm bánh rất đơn giản. Cũng theo truyền thuyết kể lại thì cách làm bánh ngày nay không khác so với lời báo mộng của thần cho Lang Liêu cũng như cách làm bánh của vị lang nặng tình với nhân dân là mấy. Nguyên liệu làm bánh bao gồm gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn, lá dong. Những nguyên liệu ấy vừa dễ kiếm lại vừa giàu ý nghĩa: vật trong Trời Đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người. Gạo nếp thường dùng là gạo thu hoạch vụ mùa.

Gạo vụ này có hạt to, tròn, đều và thơm dẻo hơn các vụ khác. Cầu kì hơn còn có gia đình phải chọn bằng được nếp cái hoa vàng hay nếp nương. Đỗ xanh thường được lựa chọn công phu. Sau thu hoạch đỗ cần phơi nắng đều thật khô, sàng sẩy hết rác, bụi, hạt lép, phân loại hạt rồi đóng vào hũ, lọ bằng sành là tốt nhất. Thịt lợn nên chọn lợn ỉn được nuôi hoàn toàn bằng phương pháp thủ công (nuôi chuồng hoặc nuôi thả, thức ăn bằng cám rau tự nhiên không dùng thuốc tăng trọng hoặc thức ăn gia súc).

Khi chọn thịt thì lấy thịt ba chỉ (ba dọi) vừa có mỡ vừa có nạc khiến nhân bánh có vị béo đậm đà, không khô bã. Ngoài ra còn cần các gia vị như hạt tiêu, hành củ dùng để ướp thịt làm nhân; muối dùng để trộn vào gạo, đỗ xanh và ướp thịt. Đặc biệt thịt ướp không nên dùng nước mắm vì bánh sẽ chóng bị ôi, thiu.

Lá để gói bánh thường là lá cây dong tươi. Lá dong chọn lá dong rừng bánh tẻ, to bản, đều nhau, không bị rách, màu xanh mướt. Tuy nhiên, tùy theo địa phương, dân tộc, điều kiện và hoàn cảnh, lá gói bánh có thể là lá chít hoặc vừa là lá dong vừa là lá chít. Lạt buộc bánh chưng thường dùng lạt giang được làm từ ống cây giang. Lạt có thể được ngâm nước muối hay hâp cho mềm trước khi gói.

Trước khi làm bánh cần có sự chuẩn bị sơ chế nguyên liệu kĩ lưỡng. Lá dong phải rửa từng lá thật sạch hai mặt và lau thật khô. Tiếp đó dùng dao bài cắt lột bỏ bớt cuộng dọc sống lưng lá để lá bớt cứng. Gạo nếp nhặt loại bỏ hết những hạt gạo khác lẫn vào, vo sạch, ngâm gạo ngập trong nước cùng 0,3% muối trong thời gian khoảng 12-14 giờ tùy loại gạo và tùy thời tiết, sau đó vớt ra để ráo. Có thể xóc với muối sau khi ngâm gạo thay vì ngâm nước muối.

Đỗ xanh làm dập vỡ thành các mảnh nhỏ, ngâm nước ấm 40° trong 2 giờ cho mềm và nở, đãi bỏ hết vỏ, vớt ra để ráo. Thịt lợn đem rủa để ráo, cắt thịt thành từng miếng cỡ từ 2.5 cm đến 3 cm sau đó ướp với hành tím xắt mỏng, muối tiêu hoặc bột ngọt để khoảng hai giờ cho thịt ngấm.

Khi làm bánh, trước hết phải xếp lạt giang một cách hợp lí rồi trải lá dong, lá chít trước. Sau đó mới trải một lớp gạo rồi đến một lớp đỗ, đặt thịt vào giữa làm nhân rồi lại trải tiếp một lớp đỗ, một lớp gạo. Sau khi quấn lá chặt lại thì dùng lạt giang buộc chắc chắn. Theo quan niệm phổ biến hiện nay, cùng với bánh giầy, bánh chưng tượng trưng cho quan niệm về vũ trụ của người Việt xưa: bánh chưng màu xanh lá cây, hình vuông tượng trưng cho Đất, bánh dầy tượng trưng cho trời.

Tuy nhiên, theo một số học giả nổi tiếng, bánh chưng nguyên thủy có hình tròn và dài, giống như bánh tét, đồng thời bánh chưng và bánh giầy tương trưng cho dương vật và âm hộ trong tín ngưỡng phồn thực Việt Nam. Bánh tét, thay thế vị trí của bánh chưng vào các dịp Tết trong cộng đồng người Việt ở miền nam Việt Nam, cũng theo những học giả trên là dạng nguyên thủy của bánh chưng.

Bánh thường được làm vào các dịp Tết Nguyên Đán cổ truyền của dân tộc Việt, cũng như ngày giổ tổ Hùng Vương mùng 10 tháng 3 Âm lịch. Thiếu bánh chưng, bánh dầy ắt không thành cái Tết hoàn chỉnh: “Thịt mỡ bánh chưng xanh, dưa hành câu đối đỏ”. Hơn thế, gói và nấu bánh chưng, ngồi canh nồi bánh chưng trên bếp lửa đã trở thành một tập quán, văn hóa sống trong các gia đình người Việt mỗi dịp tết đến xuân về.

Là loại bánh có lịch sử lâu đời nhất trong ẩm thực truyền thống Việt Nam còn được sử sách nhắc lại bánh chưng có vị trí đặc biệt trong tâm thức của cộng đồng người Việt. Sự ra đời và tục lệ làm bánh chưng ngày Tết, ngày giỗ Tổ muốn nhắc nhở con cháu về truyền thông của dân tộc đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của cây lúa và thiên nhiên trong nền văn hoá lúa nước. Theo thời gian, nền văn minh công nghiệp đang dần được hình thành song ý nghĩa và vai trò của bánh chưng thì vẫn còn nguyên vẹn.

Gợi Ý ? Thuyết Minh Về Hoa Hướng Dương ❤️️15 Bài Văn Hay Nhất

Bài Văn Thuyết Minh Về Cách Làm Bánh Chưng Điểm 10 – Bài 15

Bài Văn Thuyết Minh Về Cách Làm Bánh Chưng Điểm 10 giúp các em học sinh nắm vững bố cục và cách sử dụng từ ngữ sáng tạo trong bài viết.

Mỗi đất nước trên thế giới đều có một món ăn riêng mang đậm bản sắc của dân tộc mình. Việt Nam – quê hương thân yêu của tôi cũng vậy! Cũng có một nền ẩm thực vô cùng độc đáo, mang đậm tinh hoa văn hoá truyền thống Lạc Hồng. Không thể thiếu trong đó chính là món bánh chưng được sử dụng vào những dịp lễ tết.

Bánh chưng có từ rất lâu rồi, vào thời của vua Hùng thứ mười tám, đây là món lễ vật do Liêu Lang dâng lên cho vua cha để bày tỏ sự hiếu thảo, sự thành kính của mình. Và cũng nhờ món bánh chưng này, chàng hoàng tử út nghèo khổ đã được nhường ngôi, trở thành vị vua của dân tộc.

Từ rất lâu rồi, dân gian ta vẫn truyền rằng, bánh chưng chính là biểu tượng cho sự vuông đầy của đất mẹ, nên hình dáng của bánh chưng chính là hình vuông vức đều nhau. Nguyên liệu để làm nên một chiếc bánh chưng khá đơn giản, gần gũi với dân tộc ta, bao gồm: thịt heo thường là loại thịt ba chỉ, đậu xanh, nếp, và có thể thêm một số gia vị khác tuỳ khẩu vị của mỗi nhà. Thịt heo được thái lát vừa phải, không quá to, không quá nhỏ, được nêm thêm gia vị như hạt tiêu, hành tím, một chút muối và bột ngọt, được ướp trong thời gian 30 phút.

Để gia vị được ngấm đều vào từng miếng thịt, tạo nên vị béo ngậy, đậm đà khi thưởng thức. Người dân ta thường rất cẩn thận trong việc chọn đậu xanh và nếp. Đậu xanh thường được chọn là những hạt đậu chắc nẩy, chúng ta sẽ bóc lớp vỏ bên ngoài, giữ lớp thịt ở vàng ở trong, được ngâm trong nước ấm từ một đến hai tiếng để hạt đậu mềm hơn, đến khi luộc bánh hạt đậu sẽ nhanh chín hơn. Đây chính là hai nguyên liệu làm lớp nhân bên trong của bánh.

Còn lớp vỏ bánh bên ngoài chính là gạo nếp. Chúng ta cần ngâm gạo nếp vào nước lạnh từ bốn đến năm tiếng để hạt gạo mềm và chín kĩ hơn. Các nguyên liệu từ vỏ bánh cho đến phần nhân đã chuẩn bị xong xuôi thì các bạn cũng không được quên đến lớp lá gói bên ngoài. Đó chính là lá dong.Chúng ta cần chọn những lá không bị rách, xanh, sau đó rửa sạch và lau thật khô để tránh khi nấu bánh, bánh sẽ bị nhão.

Gói bánh chính là công đoạn cuối cùng, muốn có một cái bánh đẹp và vuông vức, chúng ta cần sử dụng đến khuôn để gói. Xếp vào khuôn bốn lớp lá dong chồng lên nhau, sau đó cho một bát gạo nếp trải đều lên lớp lá, xong cho một chén nhỏ hơn đỗ xanh rồi bỏ lên trên từ hai đến ba miếng thịt, xong chúng ta cho một ít đổ xanh lên phủ kín lại phần thịt và cuối cùng ta lại đổ một bát gạo lên trên cùng. Chúng ta gói lại theo khuôn và nén chặt thật chặt để bánh được chắc, chúng ta dùng dây lạt để buộc chặt bánh chưng.

Rồi bỏ vào nồi luộc trong khoảng tám đến mười tiếng thì bánh chín. Vớt ra rổ, để ráo nước thế là các bạn đã có thể thưởng thức được những chiếc bánh ngon lành này rồi. Khi bóc vỏ bánh ra, ta sẽ thấy có một màu xanh lá cây tươi sáng bám vào vỏ bánh. Khi cắt bánh ra, ba màu sắc của bánh trở nên thật hài hoà với màu xanh của vỏ bánh, màu vàng của gạo nếp và màu hồng hồng loang mỡ của thịt ba chỉ.

Chao ôi! Thật ngon biết bao. Nếm chiếc bánh, ta sẽ không thể nào quên được vị béo ngậy của thịt heo, vị thơm dẻo của gạo nếp và đậu xanh. Hoà quyện vào nhau tạo nên sự hoàn hảo không thể nào lẫn vào đâu được.

Và bánh chưng trở thành một bánh truyền thống mà dù miền bắc, miền trung hay miền Nam thì vào dịp lễ tết đến xuân về, nhà nhà người người đều phải chuẩn bị để bày trên bàn thờ tổ tiên, bày cạnh mâm ngũ quả. Có thể nói, đây chính là món ăn, là hương vị mà ai đi đâu cũng muốn được thưởng thức, nó như là sự báo một sự đoàn viên, sự đủ đầy.

Và cứ vào ngày 28 hay 29 tết, các thành viên trong gia đình lại tụ tập quây quần bên nhau, bên bếp củi lửa để cùng nhau gói bánh chưng, cùng nhau thức canh nồi bánh, cùng nhau trò chuyện về một năm cũ đã qua và những dự định cho năm mới lại tới. Bánh chưng là sự khéo léo và cẩn thận, bánh chưng chính là gia đình người Việt.

Bánh chưng là một loại bánh rất thơm ngon, mang một hương vị đặc trưng đậm đà bản sắc dân tộc Việt. Vì vậy, chúng ta cần gìn giữ và lưu truyền món ăn truyền thống này, giống như gìn giữ nét đẹp truyền thống của con người Việt Nam.

Xem Thêm Bài ? Thuyết Minh Về Cây Xoài ❤️️ 15 Bài Thuyết Minh Hay Nhất

Thuyết Minh Về Cách Gói Bánh Chưng Ngày Tết Hay – Bài 16

Thuyết Minh Về Cách Làm Bánh Chưng Ngày Tết Hay với những ý văn đặc sắc và câu văn sinh động, hình ảnh chân thực và sinh động.

Trong dân gian, mỗi dịp xuân về người ta vẫn thường nghe câu:

Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh

Vâng đúng vậy, bánh chưng đã trở biểu tượng không thể thiếu trong dịp Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam ta. Từ xa xưa đến nay, hình ảnh nhà nhà tất bật chuẩn bị quây quần bên nồi bánh chưng để đón Tết vô cùng quen thuộc với chúng ta. Bởi trong tâm thức của mỗi người thì bánh chưng là món ăn mang ý nghĩa sum vầy, đoàn viên.

Tương truyền trong câu nói của ông bà ta rằng bánh chưng ngày Tết đã có từ rất lâu. Mọi người vẫn tin rằng bánh chưng bánh giầy có từ thời vua Hùng thứ 6, và cho đến ngày nay thì nó đã trở thành biểu tượng của Tết truyền thống tại nước ta. Người đời vẫn luôn cho rằng bánh chưng là minh chứng cho sự đủ đầy của trời đất và sự sum vầy của gia đình sau một năm trời làm việc tất bật.

Cho dù chúng ta có ở bất cứ đâu trên mảnh đất hình chữ S này thì bánh chưng là món ăn không thể thiếu trong ngày Tết. Có thể nói đây là món ăn được chờ đợi nhiều nhất, vì ngày Tết mới đúng là ngày thưởng thức những chiếc bánh chưng ngon và ấm áp nhất. Nhưng nếu bạn tới các vùng miền khác nhau thì bạn sẽ được thưởng thức hương vị cũng như thấy được cách làm đặc trưng ở mỗi nơi có điểm khác nhau.

Về nguyên liệu, bánh chưng được làm từ những nguyên liệu rất đơn giản và thân quen với đời sống nhân dân. Nguyên liệu chính là gạo nếp, lá dong, thịt, đậu xanh giã nhỏ (hoặc nhân đậu hấp). Mỗi nguyên liệu đều được chọn lọc thật kỹ để có thể tạo nên món ăn ngon và đậm đà nhất. Về phần gạo nếp thì ta chọn những hạt tròn lẳn, đều hạt, không bị mốc, khi nấu lên ngửi thấy mùi thơm lừng của nếp. Đậu xanh chọn loại đậu có màu vàng đẹp, nấu nhừ lên và giã nhuyễn làm nhân.

Thịt ba chỉ hoặc thịt nạc cần trộn với tiêu xay, nêm nếm vừa ăn. Một nguyên liệu khác không kém phần quan trọng chính là lá dong để gói bánh. Ở một số vùng khác người ta dùng lá chuối gói bánh nhưng phổ thông nhất vẫn là lá dong. Lá gói bánh cần lau sạch, bỏ cuống, cắt thành miếng hoặc theo khuôn bánh để bánh có bề ngoài bắt mắt.

Việc lựa chọn lá gói bánh vô cùng quan trong. Lá dong cần có màu xanh đậm, có gân chắc, không bị héo và rách nát. Hoặc nếu những chiếc lá bị rách người ta có thể lót bên trong chiếc lá lành hoặc cắt đệm lá để gói sao cho giữ được hình vuông vắn và khi luộc bánh không bị vỡ. Khâu rửa lá dong, cắt phần cuống đi cũng rất quan trọng vì lá dong sạch mới đảm bảo vệ sinh cũng như tạo mùi thơm đặc trưng sau khi nấu bánh.

Sau khi chuẩn bị xong tất cả các nguyên vật liệu thì đến khâu gói bánh. Gói bánh chưng cần sự tẩn mẩn, tỉ mỉ và khéo léo để có được những chiếc bánh vuông vắn dâng lên ông bà tổ tiên. Nhiều người sử dụng khuôn vuông để gói nhưng nhiều người lớn có nhiều năm kinh nghiệm thì không cần, họ chỉ cần gấp 4 góc của chiếc lá dong lại là có thể gói được một chiếc bánh vô cùng đẹp. Bao bọc xung quanh nhân đậu và thịt là một lớp gạo nếp thật dày, phủ kín. Chuẩn bị dây lạt để gói, giữ cho phần ruột được chắc, không bị nhão ra trong quá trình nấu bánh.

Gói bánh đã khó thì công đoạn luộc bánh cũng vô cùng quan trọng. Thông thường mọi người luộc bánh trong một nồi to, đổ đầy nước và sử dụng củi khô, to để luộc trong khoảng từ 8 – 12 tiếng. Thời gian luộc bánh lâu như thế là vì để đảm bảo bánh sẽ chín đều và đạt được độ dẻo. Khi nồi bánh sôi cũng là lúc mùi bánh chưng bốc lên nghi ngút. Khi đó ta mới cảm nhận được không khí Tết mới trọn vẹn.

Sau khi chín, bánh chưng được mang ra và lăn qua lăn lại để tạo sự săn chắc cho chiếc bánh khi cắt ra đĩa và có thể để được lâu hơn. Đối với mâm cơm cúng ngày Tết thì đĩa bánh chưng là điều tuyệt vời không thể thiếu. Cũng như trên bàn thờ ngày tết, một cặp bánh chưng cúng tổ tiên là phong tục lưu truyền từ bao đời nay. Bánh chưng không chỉ tượng trưng cho sự trọn vẹn của trời đất, cho những gì phúc hậu và ấm áp nhất của lòng người mà nó còn là những tình cảm đong đầy gắn kết của cả gia đình nữa.

Hiện nay trong những ngày Tết đến, người ta còn sử dụng bánh chưng như một món quà biếu, lễ Tết những người lớn tuổi. Nó tượng trưng cho lòng thành, cho sự chúc phúc tròn đầy nhất.

Mỗi dịp Tết đến xuân về, nồi bánh chưng nghi ngút khói chính là dấu hiệu cho sự ấm áp đoàn viên. Vì vậy, nó là món ăn truyền thống của người Việt mà không loại bánh nào có thể thay thế được. Đây chính là truyền thống, là nét đẹp của con người Việt Nam mà ta cần gìn giữ và tôn trọng từ quá khứ, hôm nay và cả ngày mai nữa.

Xem Thêm Bài ❤️️ Thuyết Minh Về Cây Sầu Riêng, Trái Sầu Riêng❤️️15 Bài Hay

Thuyết Minh Về Cách Làm Món Bánh Chưng Văn Ngắn – Bài 17

Thuyết Minh Về Cách Làm Món Bánh Chưng Văn Ngắn giúp các em rèn luyện thêm kĩ năng viết của mình.

Có từ thời vua Hùng thứ 6, bánh chưng song hành cùng lịch sử dân tộc và trở thành linh hồn ngày Tết ở Bắc Bộ. Trong mâm cỗ đón xuân ngày nay, những chiếc bánh chưng xanh vuông vắn khiến ta nhớ đến sự tích bánh chưng, bánh dày tượng trưng cho quan niệm về vũ trụ của người Việt xưa.

Là loại bánh duy nhất có lịch sử lâu đời trong ẩm thực truyền thống Việt Nam còn được sử sách nhắc lại, bánh chưng có vị trí đặc biệt trong tâm thức của cộng đồng người Việt và nguồn gốc của nó liên quan đến hoàng tử Lang Liêu vào đời vua Hùng thứ sáu. Bánh chưng tượng trưng cho quan niệm về vũ trụ của người Việt xưa. Bánh có màu xanh lá cây, hình vuông, được coi là đặc trưng cho đất trong tín ngưỡng của người Việt cổ.

Bánh chưng được làm từ các nguyên liệu gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn và gói trong lá dong… Thường được làm vào các dịp Tết cổ truyền của dân tộc Việt và vào ngày mùng 10 tháng 3 Âm lịch (ngày giỗ tổ Vua Hùng).

Nguyên liệu làm bánh gồm lá dong, gạo nếp, đỗ xanh’ thịt lợn…Lá để gói thường là lá cây dong tươi, chọn lá dong rừng bánh tẻ, to bản, đều nhau, không bị rách, màu xanh mướt. Lạt buộc bánh chưng thường dùng lạt giang được làm từ ống cây giang. Gạo nếp thường dùng gạo thu hoạch vụ mùa. Gạo vụ này có hạt to, tròn, dẻo đều và mới thu hoạch sẽ thơm dẻo hơn các vụ khác. Đỗ xanh thường được lựa chọn công phu, tốt nhất là loại đỗ trồng ở vùng đồi trung du Việt Nam (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Phú Thọ v.v,) sẽ thơm và bổ hơn.

Thịt làm nhân thường là thịt lợn ba chỉ (ba dọi) với sự kết hợp của mỡ và nạc cho nhân bánh vị béo đậm đà, không khô bã như các loại thịt mông, thịt nạc thăn. Gia vị các loại: hạt tiêu, hành củ dùng để ướp thịt làm nhân. Muối dùng để trộn vào gạo, đỗ xanh và ướp thịt. Bánh chưng với màu xanh của nếp được tạo thành bằng cách quay mặt trên của !á dong, lá chuôi (mặt có màu xanh thẫm) vào trong, áp với bề mặt của gạo nếp.

Một số nơi còn sử dụng các phụ gia khác như lá dứa hay lá giềng xay nhuyễn vắt lấy nước trộn gạo vừa tạo hương thơm vừa tạo cho bánh có màu xanh ngọc.

Sau khi đã chuẩn bị đủ nguyên liệu người ta bắt tay vào làm bánh. Gạo nếp nhặt và vo sạch, ngâm gạo ngập trong nước cùng muối trong thời gian khoảng 12-14 giờ tùy loại gạo và tùy thời tiết, sau đó vớt ra để ráo. Có thể xóc với muối sau khi ngâm gạo thay vì ngâm nước muối. Đỗ xanh làm dập vỡ thành các mảnh nhỏ, ngâm nước ấm đãi bỏ hết vỏ, vớt ra để ráo, cho vào chõ đồ chín, mang ra dùng đũa cả đánh thật tơi đều mịn và sau đó chia ra theo từng nắm vừa cho mỗi chiếc bánh.

Thịt lợn đem rửa để ráo, cắt thịt thành từng miếng cỡ từ 2,5 đến 3cm sau đó ướp với hành tím xắt mỏng, muối tiêu hoặc bột ngọt để cho thịt ngấm. Khâu chuẩn bị nguyên liệu, vật liệu cho bánh chưng đặc biệt quan trọng để bánh có thể bảo quản được lâu dài không ôi thiu hay bị mốc. Thông thường có hai cách gói bánh chưng: gói bằng tay không hoặc gói theo khuôn hình vuông thường làm bằng gỗ.

Rải lạt xuống mâm tròn tạo hình chữ thập, đặt lá dong lên trên lạt, xúc bát đầy đỗ vào tâm của hình chữ thập, dùng tay gạt đều, tạo hình vuông, lấy nắm đỗ xanh bóp nhẹ và rải đều, thịt lợn rải đêu vào giữa bánh thêm bát gạo nếp đỗ lên trên và phủ khỏa đều, che kín hết thịt và đỗ, gấp lá dong lớp trên vào, vừa gấp vừa vỗ nhẹ để tạo hình khối vuông, dùng lạt buộc xoắn lại tạo thành hình chữ thập, hai bánh chưng buộc úp vào nhau thành một cặp.

Lấy xoong to, rải cuộng lá dong thừa xuống dưới kín đáy, xếp lần lượt từng lớp bánh, đổ ngập nước nồi và đậy vung đun, duy trì nước sôi liên tục trong 10 đến 12 giờ. Sau khi luộc xong, vớt bánh ra rửa sạch lá trong nước lạnh cho hết nhựa, để ráo. xếp bánh thành nhiều lớp, dùng vật nặng đè lên để ép bánh cho ra nước, chắc mịn (tục gọi là để cho rền bánh) và phăng đều trong vài giờ.

Hoàn tất công đoạn ép bánh, bánh được treo lên chỗ khô ráo trong nhà để bảo quản. Bánh thường được treo ở nơi thoáng mát, không ẩm thấp để tránh bị mốc và ôi thiu, tùy thời tiết có thể để được hàng tháng trời không hỏng. Việc bóc và cắt bánh chưng thể hiện cả nhận thức và trình độ văn hóa của người bóc bánh và người thưởng thức bánh, cắt bánh phải bằng ngay lạt buộc trông miếng bánh mới mềm mại, bắt mắt.

Với nhiều thế hệ, chiếc bánh chưng là niềm hân hoan của ngày Tết sum họp, đoàn tụ. Những chiếc bánh đẹp, dày dặn, vuông thành sắc cạnh được dành riêng đê bày bàn thờ cúng ông bả tổ tiên, bánh nhỏ gói riêng cho trẻ con như món quà đầu năm… Dù sao thì Tết đến, xuân về, hình ảnh những chiếc bánh chưng vẫn nhắc nhở mỗi người chúng ta về giá trị dân tộc truyền thống.

Tết cồ truyền và hình ảnh những chiếc bánh chưng xanh là nét đẹp truyền thông văn hoá dân tộc Việt. Bánh chưng gợi nhớ đến Tết hay Tết gợi nhớ đến việc gói bánh chưng. Có lẽ, sự hoà quyện đó đã trở thành một biểu trưng văn hoá của dân tộc Việt – Bánh chưng biểu trưng cho Tết. Vì thế, làm bánh chưng mỗi khi Tết đến đã là một phong tục đẹp trong văn hoá Việt Nam.

Tham Khảo Bài ❤️️ Thuyết Minh Về Cây Ổi ❤️️ 15 Bài Thuyết Minh Hay Nhất

Thuyết Minh Về Phương Pháp Làm Bánh Chưng Đơn Giản – Bài 18

Thuyết Minh Về Phương Pháp Cách Làm Bánh Chưng Đơn Giản giúp các em có thêm nhiều ý tưởng để làm bài văn của mình thêm ấn tượng.

Mỗi độ tết đến xuân về, khắp đường phố luôn tràn ngập sắc đỏ của hoa đào và ánh vàng của những cành mai. Trong nhà, mọi thứ đều được trang hoàng lộng lẫy để đón xuân về, và một trong những thứ không thể thiếu trên ban thờ cúng gia tiên cũng như mâm cơm ngày tết chính là chiếc bánh chưng xanh.

Sự tích kể rằng, xưa kia, Hùng Vương thứ 16 muốn tìm người kế vị nên đã đặt ra yêu cầu rằng nếu ai làm ngài vừa ý, ngài sẽ truyền ngôi cho. Lang Liêu là con của ngài, vì nhà rất nghèo nên thay vì dâng cho vua cha những của ngon vật lạ, chàng đã đưa cho ngài thưởng thức chiếc bánh hình vuông được làm từ gạo, thịt, đỗ. Vưa cha ưng ý vội truyề ngôi cho Lang Liêu, từ đó, chiếc bánh với lớp vỏ ngoài màu xanh có tên gọi là bánh chưng ra đời.

Nguyên liệu để làm ra chiếc bánh chưng được lấy từ gạo nếp, thịt và đỗ còn vỏ ngoài được lấy từ lá dong. Người ta thường chọn gạo nếp cái hoa vàng để làm vỏ ngoài của bánh, đây là loại gạo có hạt bóng mẩy và đều nhau, khi chín thì vừa thơm vừa dẻo. Còn đối với thịt lợn, để làm nhân bánh thì việc chọn được những miếng thịt ba chỉ sẽ khiến cho chiếc bánh ngon hơn bội phần so với các loại thít khác. Thịt sau khi cắt miếng to bản sẽ được ướp với một chút hạt tiêu để chiếc bánh có chút vị cay đặc chưng vốn có.

Riêng với đỗ, người cẩn thận thì đem luộc xong giã và nắm chặt thành từng nắm nhỏ, với những ai bận rộn thì thường lấy luôn đỗ sống để làm nhân. Lá dong trước khi gói bánh phải được rửa sạch sẽ và quấn quanh chiếc cột để phơi lên, sau khi lá đã ráo nước thì tháo xuống và dùng dao tước bớt phần sống lá ở phía sau sau cho lưng của lá không còn nhô cao.

Sau khi trải qua công đoạn chuẩn bị nguyên liệu thì người gói bánh sẽ rải những tấm lót sạch, rộng xuống nền nhà và tiến hành gói bánh. Có hai cách để gói, một là dùng khuôn, hai là dùng tay. Ưu điểm của dùng khuôn chính là giúp cho chiếc bánh trở nên vuông vắn hơn còn dùng tay sẽ làm bánh được gói chắc chắn hơn.

Tuy nhiên, dù dùng cách nào thì công đoạn đầu tiên của gói bánh cũng là trải lá ra một khoảng rộng, đổ gạo vào sau đó cho một nắm đỗ chín hoặc nửa bát đỗ sống lên, gắp một đến hai miếng thịt đặt lên giữa đỗ, tiếp tục cho số lượng đỗ giống như bàn đầu đè lên miếng thịt, cuối cùng là đổ gạo nếp lên và gói lá vào. Việc gói bánh rất quan trọng, nếu sơ ý có thể khiến chiếc bánh bị phèo gạo ra khi luộc. Để hạn chế việc này, người gói cần phải thật chắc tay trong lúc uốn lá để tạo thành hình vuông.

Khi những chiếc bánh đã được hoàn thành sẽ được xếp vào nồi lớn và bắc lên bếp đun, thời gian nấu bánh thường rơi vào khoảng từ 10 đến 12 giờ, tùy vào từng loại gạo. Bánh chín sẽ được vớt ra và nén bằng vật nặng, sau đó mới cất đi để ăn dần.

Ngày nay, dù cho nền công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang phát triển với mức độ chóng mặt thì việc gói bánh chưng ngày tết vẫn được rất nhiều gia đình coi trọng. Khoảnh khắc cả gia đình quây quần bên mâm cơm ngày tết với đĩa bánh chưng xanh đã, đang và sẽ luôn im đậm trong tâm trí nhiều người Việt Nam.

Hướng Dẫn Cách ? Nhận Thẻ Cào 50k Miễn Phí ❤️ Kiếm Thẻ Cào Free

Thuyết Minh Về Quy Trình Làm Bánh Chưng Chi Tiết – Bài 19

Thuyết Minh Về Cách Làm Bánh Chưng Chi Tiết để lại nhiều ấn tượng cho các bạn đọc dưới đây, cùng đón đọc ngay nhé!

Theo phong tục ngàn xưa của người Việt Nam, một năm có 365 ngày và mỗi một năm chúng ta lại được đón một cái tết cổ truyền.Tết Nguyên đán là một nét đẹp truyền thống đã có từ ngàn xưa với “thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ; cây nêu, tràng pháo,bánh chưng xanh”. Vào ngày tết trên bàn thờ mỗi gia đình không bao giờ thiếu được những chiếc bánh chưng.

Bánh chưng ra đời từ truyền thuyết Lang liêu con của vua Hùng trong giai thoại của dân tộc. Truyện kể rằng, Lang liêu đã được thần linh mách bảo dùng lá dong, gạo nếp, thịt lợn và đậu xanh cùng các loại gia vị để làm ra thứ bánh cúng trời đất dâng lên vua cha thể hiện lòng thành kính. Nhờ đó mà Lang liêu được vua cha nhường cho ngôi báu. Và cũng từ đó, chiếc bánh chưng đã trở thành thứ không thể thiếu vào ngày tết của dân tộc để dâng lên tổ tiên với lòng thành kính của con cháu. Phong tục tốt đẹp đó vẫn được gìn giữ đến tận ngày nay.

Khi nhìn chiếc bánh chưng, chúng ta thấy mộc mạc và giản dị vô cùng nhưng để làm ra nó không phải điều dễ dàng, là cả một quá trình công phu. Để chuẩn bị làm bánh chưng bạn cần các nguyên liệu sau. Trước tiên là lá dong, cần chọn những chiếc lá dong to bản, còn lành lặn và xanh mượt. Lạt để cuốn cần được chẻ sẵn, mỏng và mềm, có màu vàng ngà ngà để ăn ý với lá dong màu xanh mượt.

Gạo để gói bánh cần chọn loại gạo nếp cái hoa vàng vừa dẻo vừa thơm được ngâm kỹ từ tối hôm trước sau đó đem xả rồi xóc cho ráo nước. Đậu xanh cũng cần được chuẩn bị trước, đãi sạch vỏ xanh. Thịt lợn làm nhân được cắt thành miếng to nửa bàn tay và ướp đều gia vị với muối, hạt tiêu, hành cho ngấm đều. Tât cả mọi thứ đã chuẩn bị sẵn sàng được bày ra nong và tiến hành gói

Thường thì vào những ngày giáp tết, mỗi gia đình sẽ quây quần với nhau để gói bánh chưng, không khí mới ấm cúng làm sao. Một người trải lá ra mâm, một người đong gạo đổ vào, sau đó dàn cho đều gạo, đổ tiếp nửa bát đỗ xanh lên trên, xếp hai miếng thịt và thêm nửa bát đỗ, một bát gạo nữa lên trên.

Sau khi đã đầy đủ, nhẹ tay bẻ bốn góc lá cho vuông vức, sau đó siết chặt từng chiếc lạt và tiến hành quấn lạt lại. Người quấn cần chắc tay để có được những chiếc bánh chắc chắn nhất. Thành phẩm một chiếc bánh chưng đã xong. Mọi người cùng nhau, quây quần bên thúng gạo, vừa gói vừa tám chuyện, chẳng mấy chốc đã được rổ bánh chưng.

Tiếp sau đó đến công đoạn luộc bánh. Phía góc sân, bếp lửa đã được nổi lên sẵn. Những gốc tre, gốc củi khô tích trữ từ lâu được đem ra để nấu bánh chưng. Ngọn lửa củi cháy to trong rất ấm cúng, cần cho lửa cháy đều và to bánh mới chín rền và ngon, không bị hấy.

Sau khi luộc bánh đã chín, bố tôi dỡ bánh ra và rải đều lên chiếc chõng tre trước hiên nhà, hơi nóng từ những chiếc bánh phả ra nghi ngút cùng với mùi thơm nồng nàn hấp dẫn làm sao. Bố tôi đã chuẩn bị sẵn hai tấm gỗ và một chiếc cối để nén bánh. Thật không còn gì vui hơn khi chúng tôi – những đứa trẻ đợi cả ngày theo dõi để rồi được nếm những chiếc bánh đầu tiên ra lò. Cảm giác thật tuyệt vời, nếp dẻo, đỗ bùi, thịt béo ngậy,… mới ngon làm sao.

Cùng với mâm ngũ quả, hộp trà, hộp mứt, chai rượu và những cành đào, hoa mai, mâm cỗ tất niên đã sẵn sàng dâng lên trời đất, tổ tiên, đón các cụ về ăn tết. Không khí thiêng liêng của ngày tết thực sự bắt đầu.

Tặng Bạn ? Thẻ Cào Miễn Phí ❤️ Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất

Thuyết Minh Về 1 Phương Pháp Cách Làm Bánh Chưng – Bài 20

Thuyết Minh Về 1 Phương Pháp Cách Làm Bánh Chưng sẽ giúp các em học sinh luyện tập cách sử dụng từ ngữ sáng tạo và sinh động.

“Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ
Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh”

Bánh chưng là một trong những món ăn không thể thiếu trong mỗi gia đình Việt Nam mỗi dịp Tết đến xuân về. Từ bao đời nay, bánh chưng đã như một món ăn gắn bó, sum vầy, mang đậm hương vị Tết cổ truyền dân tộc.

Truyện xưa kể rằng, từ đời Hùng Vương thứ 6, hoàng tử Lang liêu đã được vua cha lựa chọn để truyền ngôi với món bánh chưng, một thức bánh làm từ lúa gạo, do chính con người làm ra. Bánh chưng thường đi liền với bánh dày, nếu như bánh dày hình tròn, tượng trưng cho trời thì bánh chưng lại hình tượng trưng cho đất, con người luôn phải biết ơn mảnh đất đã sinh ra và nuôi sống chúng ta. Bánh chưng bao gồm những nguyên liệu rất đơn giản: Lá dong dùng để gói bánh, gạo nếp làm vỏ bánh và đỗ xanh, thịt lợn, hành làm nhân bánh.

Để chuẩn bị gói bánh chưng, ta phải chuẩn bị những lá dong với nhiều kích cỡ, rửa sạch. Gạo nếp và đỗ xanh phải được ngâm sẵn, thịt lợn thái miếng và hành thái lát mỏng. Sau đó đến công đoạn gói bánh chưng. Ngày trước ông bà ta gói bánh chưng thuần túy bằng tay, nhưng bây giờ thường có khuôn để gói bánh được vuông vắn và dễ dàng hơn. Đầu tiên là đặt hai chiếc lạt biên dưới khuôn, sau đó xếp một lớp lá dong vuông vắn lên bốn mép khuôn.

Tiếp theo là một lớp gạo nếp. Sau khi đã đổ gạo nếp lần thứ nhất, ta sẽ cho nhân bánh chưng gồm có đỗ, thịt và hành vào, xan đều ra giữa bánh rồi lại đổ thêm một lớp gạo nếp nữa. Cuối cùng là gói bánh lại và dùng lạt để cố định bánh cho chắc chắn. Khi gói bánh ta không nên xê dịch để tránh bị góc lệch. Những chiếc bánh chưng được coi là đạt tiêu chuẩn khi phần gạo và nhân bánh được nằm vuông vắn trong lớp lá, khi gói bánh chưng, không được cho lớp lá quá mỏng hay rách bởi nếu vậy khi luộc ruột bánh sẽ bị bung ra ngoài.

Sau khi gói xong bánh chưng, ta cần chuẩn bị một nồi lớn để luộc bánh, thường thì sẽ luộc bánh chưng bằng bếp củi vì mất khá nhiều thời gian, xếp lần lượt bánh chưng vào nồi sau đó đổ nước vào, để lửa cháy âm ỉ trong khoảng 6-10 tiếng. Bánh chưng cần luộc lâu để chín đều và mềm thơm. Sau khi luộc xong bánh chưng cần được ép cho vuông vắn. Lúc ấy một chiếc bánh chưng mới hoàn chỉnh.

Bánh chưng thường được dùng để cúng ông bà tổ tiên, mang làm quà biếu tặng mỗi dịp Tết đến xuân về, vừa gần gũi lại vừa lịch sự. Bóc bánh chưng, màu bánh phải xanh màu lá dong, gạo phải mềm và chín tới mới ngon. Bánh chưng không cắt bằng dao mà dùng chính lạt gói bánh để cắt rất dễ dàng.

Lớp vỏ bánh dính chặt và thơm mùi gạo nếp, mùi lá dong, đỗ bở tới, quyện với thịt lợn và hành tươi tạo nên một hương vị độc đáo và riêng biệt. Bánh chưng thường được ăn kèm với hành muối và dưa món,… Những chiếc bánh chưng trong mâm cơm ngày Tết vừa là món ăn thân thuộc vừa là mong chờ và niềm chúc cho những điều tốt đẹp trong năm mới sẽ đến với mỗi gia đình.

Cho dù xã hội có phát triển đến đâu, những món ăn mới và ngon như thế nào có ra đời, vị trí của bánh chưng trong mỗi dịp lễ trọng đại của dân tộc vẫn không thể thay thế. Món bánh chưng mộc mạc giản dị mà đầy ý nghĩa, vừa là sự biết ơn với ông cha ta, vừa là nét đẹp văn hóa không thể phai mờ.

Hướng Dẫn ? Nạp Thẻ Ngay Miễn Phí ❤️️ Tặng Card Nạp Tiền Ngay Free Mới

Thuyết Minh Về Cách Làm Bánh Chưng Lớp 8 Ngắn – Bài 21

Thuyết Minh Về Cách Làm Bánh Chưng Lớp 8 Ngắn gọn được nhiều người yêu thích và chia sẻ trên các diễn đàn cho mọi người cùng biết.

Bánh chưng là loại bánh truyền thống đặc biệt và không thể thiếu trong những ngày lễ tết, bánh chưng còn được nhắc đến trong những trang sử, những câu chuyện cổ mà từ thuở nhỏ ta được nghe kể.

Vua Hùng thứ sáu sau khi đánh tan giặc xâm lược liền tính đến chuyện nhường ngôi, lệnh cho các con tìm thức quả tròn Đạo hiếu trời đất. Các hoàng tử đua nhau đi tìm các bảo bối, từ lên rừng săn bắn, xuống biển để chài lưới, hoặc tìm ngọc quý đổi chác, đều là của ngon vật lạ. Hoàng tử thứ mười tám tên là Lang Liêu, tính tình tốt đẹp, thương dân, lại hay gần việc đồng áng nằm mơ thấy thần báo mộng làm bánh. Lang Liêu tỉnh dậy, cứ bắt chước theo lời thần chỉ mà làm.

Lang Liêu bèn lựa gạo nếp ngon nhất đem vo cho sạch, rồi lấy lá xanh gói thành hình vuông, bỏ nhân ngon vào giữa, đem nấu chín tượng trưng cho Đất, gọi là bánh chưng. Lại lấy nếp nấu xôi đem quyện cho nhuyễn, nhào thành hình tròn để tượng trưng cho Trời, gọi là bánh dày. Lang Liêu đem bánh hình tròn, bánh hình vuông đến dâng. Vua nếm thử bánh thì thấy vị ngon, ăn mãi không chán. Của dâng hợp lòng vua, vua khen ngợi chàng và truyền ngôi cho. Kể từ đó, cứ đến ngày lễ Tết, là dân gian làm làm hai thứ bánh này để tròn Đạo hiếu.

Để làm nên một chiếc bánh chưng ngon, người làm đã phải dụng công từ khâu chọn nguyên liệu, các nguyên liệu cần có là: thịt ba chỉ( lúc ăn sẽ nếm được vị ngậy và bùi), gạo nếp, đỗ xanh, lá dong, lạt và các gia vị như hạt tiêu, hành…Việt Nam từ xưa vốn nổi tiếng với nghề nông, nền văn minh lúa nước, những nguyên liệu của bánh chưng vừa là những thức quả gần gũi mà người dân làm ra, là thành quả lao động nên rất đáng trân trọng, từ những thức ăn gần gũi ấy mà chế ra một món bánh ngon, mới mẻ thì quả hay.

Những chiếc lá dong mua hoặc cắt từ vườn về rồi rửa sạch tránh cho lá nát, cắt bớt phần cuống và tỉa thêm. Lá đạt tiêu chuẩn phải là lá vừa to, xanh, không úa, thì khi gói bánh mới đẹp, màu sắc mới tươi mắt. Gạo nếp vo sạch, để ngâm nước, các bà các mẹ hay chuẩn bị từ đêm hôm qua để sáng mai là có thể gói, sau đó vớt ra cho ráo.

Đỗ xanh được ngâm nước ấm, đãi sạch vỏ. Thịt ba chỉ mua về đem nước rửa sạch, thái miếng thịt vừa đủ ăn, sau đó ướp với các gia vị như muối tiêu, nước mắm, để cho ngấm là được. Lạt giang được chẻ nhỏ, mỏng, mềm để dễ gói, lúc ăn cũng rất bóc. Người gói bánh chung thường có nhiều kinh nghiệm mới gói được chiếc bánh ngon, đẹp mắt, chiếc bánh chưng đòi hỏi sự tỉ mỉ, khéo léo.

Trải lá dong theo khuôn, cho một bát gạo, nửa bát đỗ, nhân thịt để ở giữa, nhiều ít tuỳ thuộc mỗi người, rồi lại đắp một nửa bát đõ, một bát gạo, dàn ra cho phẳng cho cân là được, gói lá phải chặt tay, lạt cũng phải biết cách uốn. Như vậy, ta chỉ cần cho bánh vào nồi đun lửa nhỏ và canh bánh chín. Mùi bánh thơm phức làm nức lòng người đợi.

Bánh chưng chính là thức quà thiết yếu gắn bó từ bao đời với người dân Việt Nam cần cù, chịu khó.Đó là thành quả lao động, là tấm lòng hiếu kính cha mẹ, ông bà, tổ tiền của con cháu. Những hạt gạo hai nắng một sương, những hạt đỗ thơm, bùi, ngọt, dẻo, miếng thịt chia ngọt sẻ bùi. Nâng niu tấm bánh trên tay, cắn một miếng như được quay lại với những câu chuyện ngàn năm văn hiến.

Gợi Ý ❤️️ Nạp Thẻ Viettel Miễn Phí ❤️️ Cách Nạp, Tặng Card Viettel Free

Thuyết Minh Về Cách Làm Bánh Chưng Lớp 9 Hay – Bài 22

Thuyết Minh Về Cách Làm Bánh Chưng Lớp 9 Hay giúp các em có thêm nhiều kiến thức hay và trau dồi thêm nhiều kĩ năng viết.

Lạt này gói bánh chưng xanh
Cho mai lấy trúc cho anh lấy nàng

Câu ca dao ấy cất lên chắc hẳn sẽ gợi lên trong mỗi người dân trên đất nước Việt Nam từ già cho tới trẻ, từ trai cho tới gái hình ảnh chiếc bánh chưng – một loại bánh dân dã, quen thuộc, thân quen mà rất đỗi cao quý và ngập tràn ý nghĩa đối với mỗi người con đất Việt.

Bánh chưng là loại bánh dân dã, quen thuộc với mỗi người dân Việt Nam, bởi vậy nguyên liệu để làm nó cũng rất bình dị, gần gũi. Trước hết, để làm được bánh chưng không thể thiếu gạo nếp – một loại gạo dẻo và có vị thơm để làm vỏ bánh. Nhân bánh được là sự kết hợp giữa đậu xanh, thịt lợn và dưa hành. Ngoài ra, khi làm bánh cũng cần có là chuối hoặc lá dong và lạt để gói bánh cùng một số nguyên liệu phụ khác như tiêu, muối.

Thông thường, để làm ra được một chiếc bánh chưng người ta cần phải trải qua nhiều công đoạn khác nhau, đòi hỏi sự tỉ mỉ, cẩn thận và khéo léo của người làm bánh. Đầu tiên đó là công đoạn chuẩn bị nguyên liệu. Những nguyên liệu kể trên phải được sơ chế một cách kĩ càng, chu đáo. Gạo nếp phải được làm sạch sẽ và ngâm với nước để gạo được mềm và dẻo hơn. Đậu xanh được làm sạch vỏ và được nấu chín nhuyễn với một ít muối.

Thịt lợn được cắt thành miếng nhỏ và ướp với gia vị để tạo độ thơm. Ngoài ra, lạt buộc cần được làm thành sợi dài và mỏng. Sau khi đã chuẩn bị nguyên liệu theo yêu cầu, người ta bắt đầu gói bánh. Bánh chưng được gói bằng tay nhờ vào các khuôn bánh được làm sẵn từ trước. Đồng thời, để làm nên một bánh chưng ngon còn yêu cầu khi luộc bánh phải đủ thời gian, không quá ngắn mà cũng không quá dài. Thông thường, người ta thường luộc bánh trong khoảng thời gian tám đến mười giờ, tùy vào loại gạo nếp được sử dụng.

Sau khi bánh đã được luộc chín người ta vớt bánh ra và để nguội, như vậy là đã có một chiếc bánh chưng ngon, đẹp rồi. Thêm vào đó, tùy vào khẩu vị của mỗi vùng, miền mag bánh chưng có thể thêm vào hoặc bớt đi một số nguyên liệu.

Bánh chưng là nét độc đáo trong văn hóa ẩm thực của người Việt. Nó biểu tượng cho tấm lòng biết ơn ông bà tổ tiễn và sự trân trọng những điều bình dị, tinh túy trong trời đất. Bánh chưng là loại bánh không thể thiếu trên bàn thờ, trong mâm cơm cúng tổ tiên mỗi dịp Tết đến xuân về. Bánh chưng đã trở thành một nét đẹp không thể thiếu trong tâm thức của mỗi người con đất Việt.

Chắc có lẽ bởi vậy mà mỗi người con đất Việt ở xa quê, mỗi dịp Tết đến người ta vẫn cùng nhau tự gói hay mua về những chiếc bánh chưng để thờ cúng và cùng nhau thưởng thức như một cách để nhớ, để gìn giữ và lưu truyền nét đẹp văn hóa của dân tộc.

Tóm lại, bánh chưng là loại bánh cổ truyền, có ý nghĩa sâu sắc trong đời sống của hàng triệu, hàng triệu người con đất Việt. Dù thời gian có trôi đi, cuộc sống của con người ngày càng phát triển và có thêm nhiều món ăn, loại bánh mới nhưng không bất cứ thứ gì có thể thay đổi được vị trí, ý nghĩa của chiếc bánh chưng trong văn hóa và trong ẩm thực của người dân Việt Nam.

Chia Sẻ Bạn Cách ? Nhận Thẻ Cào 100k Miễn Phí ❤️ Card Viettel Mobifone


Thuyết minh về bánh chưng :))


Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Giáo Dục
Xem thêm :  Công thức tính thể tích hình trụ, diện tích xung quanh và toàn phần hình trụ tròn

Related Articles

Back to top button