Giáo Dục

Cảm nhận bài thơ đây thôn vĩ dạ của hàn mặc tử (dàn ý + 8 mẫu)

Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ khá tiêu biểu cho phong cách thơ của Hàn Mặc Tử. Tác phẩm này sẽ được giới thiệu đến các bạn học sinh trong chương trình Ngữ văn lớp 11.

Dưới đây là tài liệu Bài văn mẫu lớp 11: cảm nhận bài thơ đây thôn vĩ dạ, bao gồm dàn ý và 8 bài văn mẫu, mời bạn đọc tham khảo.

Dàn ý cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

I. Mở bài

– Giới thiệu về tác giả Hàn Mặc Tử, bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.

– Cảm nhận chung về bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.

II. Thân bài

1. Bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ

* Câu 1: Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

– Câu hỏi có hai cách hiểu:

  • Lời của người thôn Vĩ hỏi tác giả
  • Lơi phân thân của tác giả tự hỏi chính mình

=> Dù hiểu theo cách nào thì câu hỏi trên cũng thể hiện được nỗi nhớ thôn Vĩ da diết cũng như mong muốn được về chơi thôn Vĩ.

* Câu 2: Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

– Hình ảnh “nắng hàng cau”: ánh nắng của bao trùm khắp làng quê.

– Điệp ngữ: “nhìn nắng” – “nắng mới” thể hiện một không gian tràn đầy ánh nắng sức sống.

* Câu 3:

– Khu vườn không chỉ tràn ngập sắc nắng mà còn sắc xanh.

– “xanh như ngọc” một màu xanh mát mẻ, tươi mới và dễ chịu.

* Câu 4: Lá trúc che ngang mặt chữ điền

– Trong không gian thiên nhiên thôn Vĩ, hình ảnh con người thoáng xuất hiện:

– Khuôn mặt chữ điền của người thôn Vĩ thấp thoáng sau tán trúc. Khuôn mặt chữ điền gợi ra vẻ hiền lành phúc hậu, phải chăng đó là khuôn mặt của người con gái Hàn Mặc Tử thầm thương?

=> Bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ trong sáng, tươi tắn và có sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên.

2. Bức tranh sông nước trong đêm trăng

* Câu 5 và câu 6:

– Hình ảnh thiên nhiên thể hiện sự chia lìa: gió, mây vốn quấn quýt nay chia lìa đôi ngả.

– Dòng sông như nhuốm màu tâm trạng buồn bã, thê lương.

– Hình ảnh hoa bắp khẽ lay cũng giống như cuộc đời lưu lạc trôi nổi của con người.

* Câu 11: Ở đây sương khói mờ nhân ảnh gợi khung cảnh huyền ảo, không có thật.

=> Hình ảnh thiên nhiên đêm trăng đượm buồn và mờ ảo, hư không.

=> Sự đối lập giữa hai bức tranh thiên nhiên nơi làng quê thôn Vĩ và đêm trăng.

3. Tâm trạng của nhà thơ

– Khung cảnh cũng vận động từ thực đến ảo, từ vườn thôn Vĩ đến sông trăng và cuối cùng chìm vào tâm thức mờ ảo của sương khói.

– Câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” là lời nhân vật trữ tình vừa là để hỏi người và vừa để hỏi mình, vừa gần gũi vừa xa xăm, vừa hoài nghi vừa như giận hờn, trách móc.

– Đại từ phiếm chỉ “ai” làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng của một tâm hồn khát khao được sống, được yêu.

=> Làm nhòe mờ hình tượng của khách thể và chủ thể trữ tình, tạo nên một nỗi ám ảnh về nỗi đau trong cõi mênh mông vô tận, tâm trạng hụt hẫng và đầy tuyệt vọng của nhà thơ.

III. Kết bài

– Cảm nhận về bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.

Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 1

Một trong những tác giả tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam là Hàn Mặc Tử. Nổi bật trong các sáng tác của ông là bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”. Tác phẩm đã khắc họa bức tranh thiên nhiên đẹp về một miền quê đất nước, là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người.

Khi đọc “Đây thôn Vĩ Dạ”, người đọc sẽ cảm thấy ấn tượng đầu tiên với bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Câu hỏi tu từ đầu tiên gợi về hai cách hiểu. Đó có thể là lời hỏi của người thôn Vĩ hỏi tác giả đã lâu rồi sao không về chơi thôn Vĩ. Hoặc có thể là lơi phân thân của tác giả vì quá khao khát được về thăm thôn Vĩ mà tự hỏi chính mình. Nhưng dù hiểu theo cách nào thì câu hỏi trên cũng thể hiện được nỗi nhớ thôn Vĩ da diết cũng như mong muốn được về chơi thôn Vĩ.

Tiếp đến, bức tranh thiên nhiên dần hiện ra với những nét khắc họa. Hình ảnh “nắng hàng cau” gợi ra ánh nắng bao trùm khắp không gian làng quê. Kết hợp với điệp ngữ: “nhìn nắng” – “nắng mới” cho thấy sức sống bao trùm khắp không gian. Nhưng khu vườn không chỉ tràn ngập sắc nắng mà còn sắc xanh. Đó là màu “xanh như ngọc” – một màu xanh mát mẻ, tươi mới và dễ chịu. Và trong không gian thiên nhiên thôn Vĩ, hình ảnh con người thoáng xuất hiện. Khuôn mặt chữ điền của người thôn Vĩ thấp thoáng sau tán trúc. Khuôn mặt chữ điền gợi ra vẻ hiền lành phúc hậu, phải chăng đó là khuôn mặt của người con gái Hàn Mặc Tử thầm thương? Như vậy, bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ trong sáng, tươi tắn và có sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên.

Trái ngược với bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ, bức tranh sông nước đêm trăng lại mang màu sắc đượm buồn:

“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Ở bức tranh này, tác giả đã khắc họa hình ảnh thiên nhiên nhuốm màu sắc chia ly. Trong thực tế, “gió và mây” vốn quấn quýt, gắn bó. Nhưng khi đi vào thơ của Hàn Mặc Tử lại gợi sự chia lìa đôi ngả. Còn dòng sông lại “buồn thiu”, dòng sông được nhân hóa như đang nhuốm màu tâm trạng buồn bã, thê lương. Và cuộc đời của con người cũng giống như “hoa bắp lay”. Bông hoa nhỏ bé bị dòng nước cuốn trôi, vùi dập. Hình ảnh thiên nhiên đêm trăng đượm buồn và mờ ảo, hư không.

Khổ thơ cuối cùng là nỗi niềm tâm trạng của Hàn Mặc Tử:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Khung cảnh cũng vận động từ thực đến ảo, từ vườn thôn Vĩ đến sông trăng và cuối cùng chìm vào tâm thức mờ ảo của sương khói. Đông từ “mơ” chỉ trạng thái vô thức của con người, cho thấy rằng nhà thơ đang đắm chìm trong cõi mộng. Cùng với điệp ngữ “khách đường xa” nhằm nhấn mạnh khoảng cách xa rời, chỉ là khách trong mơ. Tiếp đến là hình ảnh “áo em trắng quá nhìn không ra” đã diễn tả sự choáng ngợp, thảng thốt; “nhìn không ra” cực tả sắc trắng, trắng một cách kì lạ, bất ngờ. Đây không còn là màu sắc thực nữa mà là màu sắc hiện lên trong tâm tưởng của nhà thơ. Đến câu thơ tiếp theo “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh” lại gợi cho ta hai cách hiểu. Hình ảnh thực đã gợi ra khung cảnh xứ Huế nắng nhiều, mưa nhiều nên nhiều sương khói và sương khói làm tăng thêm vẻ hư ảo, mộng mơ của xứ Huế. Đồng thời đó còn là hình ảnh biểu tượng gợi làn sương khói làm mờ ảo cả bóng người hay chính là tượng trưng cho một mối tình mong manh, xa vời, không trọn vẹn. Đặc biệt là câu hỏi tu từ kết lại bài thơ “Ai biết tình ai có đậm đà?” là lời nhân vật trữ tình vừa là để hỏi người và vừa để hỏi mình, vừa gần gũi vừa xa xăm, vừa hoài nghi vừa như giận hờn, trách móc. Ở đây, Hàn Mặc Tử đã sử dụng đại từ phiếm chỉ “ai” làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng của một tâm hồn khát khao được sống, được yêu. Đồng thời làm nhòe mờ hình tượng của khách thể và chủ thể trữ tình, tạo nên một nỗi ám ảnh về nỗi đau trong cõi mênh mông vô tận, tâm trạng hụt hẫng và đầy tuyệt vọng của nhà thơ.

Như vậy, “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Từ đã khắc họa đẹp về cảnh và người xứ Huế qua đó cho thấy được tình yêu thiết tha, đằm thắm của tác giả đối với quê hương đất nước, với con người xứ Huế đoan trang, dịu dàng. Đồng thời, tác phẩm còn thể hiện tiếng lòng riêng tư của Hàn Mặc Tử – một con người tài hoa bạc mệnh. Dù tác giả đang phải đối mặt với cái chết cận kề nhưng vẫn khao khát sự sống. Chính vì vậy mà tác phẩm lại có được sự cộng hưởng rộng rãi và lâu bền trong tâm hồn thế hệ bạn đọc.

Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 2

Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Hàn Mặc Tử. Bài thơ không chỉ khắc họa bức tranh thiên nhiên đẹp về một miền quê đất nước, mà còn là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người.

Hàn Mặc Từ đã khắc họa hai bức tranh thiên nhiên đối lập nhau. Đó là bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ và bức tranh sông nước đêm trăng. Đến với khổ thơ đầu tiên, người đọc sẽ cảm nhận được vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ:

Bài thơ bắt đầu bằng một câu hỏi tu từ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Ở đây, người đọc có thể hiểu theo hai cách. Đó có thể là lời thăm hỏi của cô gái thôn Vĩ khi nhà thơ đang mắc bệnh hiểm nghèo. Nhưng cũng có thể là lời của chính tác giả, Hàn Mặc Tử đang tự phân thân để hỏi chính mình. Nhà thơ lúc này dù khao khát, nhớ nhung quê hương nhưng không thể trở về. Nhưng cả hai cách hiểu đều cho chúng ta thấy được nỗi nhớ quê cũng như mong muốn được về thôn Vĩ của nhà thơ. Sau đó, bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ bắt đầu được nhà thơ khắc họa với những nét đẹp: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Cụm từ “nắng hàng cau” gợi ra một thực tế. Cau vốn là loại cây thân thẳng, cao lớn nhất trong khu vườn nên đã đón được ánh nắng đầu tiên của một ngày. Còn “nắng mới” cho thấy đây thứ ánh nắng mới bắt đầu của một ngày. Nó gợi sự ấm áp, tươi vui. Nhà thơ đã kết hợp sử dụng biện pháp tu từ điệp ngữ “nhìn nắng hàng cau” và “nắng mới” cho thấy lúc này, khắp không gian đều đang ngập tràn ánh nắng của buổi sớm mai. Thiên nhiên không chỉ có màu vàng của nắng. Mà còn có màu xanh của vườn cây: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Khu vườn này không rõ là của “ai”. Chỉ biết nó được chăm sóc rất cẩn thận. Khắp nơi đều tràn ngập màu xanh của cây cối. Cách so sánh “xanh như ngọc” gợi một màu xanh trong sáng, ẩn chứa ánh sáng của sự sống. Từ “quá” bộc lộ sự trầm trồ, khen ngợi của nhà thơ dành cho khu vườn. Giữa thiên nhiên đó không thể thiếu được dáng vẻ của con người: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. “Mặt chữ điền” gợi ra vẻ hiền lành phúc hậu của người thôn Vĩ. Hàn Mặc Tử như nhìn thấy khuôn mặt ai thấp thoáng sau lá trúc. Phải chăng đó là khuôn mặt của người con gái Hàn Mặc Tử thầm thương?

Kết lại bức tranh thôn Vĩ đầy sức sống, Hàn Mặc Tử đưa người đọc đến với bức tranh thiên nhiên sông nước đượm buồn:

“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Cảnh vật trong bức tranh này đều nhuốm màu buồn bã, chia lìa. Với một tâm hồn tràn đầy mặc cảm, Hàn Mặc Tử đã vẽ nên một bức tranh đẹp đấy nhưng cũng buồn đấy. Theo quy luật thông thường của thiên nhiên, “gió và mây” luôn là hai hình ảnh sóng đôi “gió thổi, mây bay”. Nhưng ở trong thơ Hàn, gió và mây lại chia lìa đôi ngả. Gió theo lối gió, mây theo đường mây. Không có bất kì mối liên hệ nào. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, con sông cũng nhuốm màu bi thương “dòng nước buồn thiu”. Với tính từ “buồn thiu” kết hợp biện pháp nhân hóa, làm cho dòng sông cũng trở nên buồn bã, không buồn vận động. Bức tranh sông nước đêm trăng không thể thiếu được hình ảnh ánh trăng. Trong mặc cảm chia lìa, ánh trăng hiện lên trong nỗi lo âu, khắc khoải “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Câu hỏi toát lên niềm hy vọng đầy khắc khoải. Đó là khát khao, là ước vọng được giao duyên, được hội ngộ của nhà thơ gửi gắm qua từ“kịp”.

Những câu thơ cuối cùng là dòng tâm trạng được khắc họa nổi bật qua không gian vừa thực vừa ảo. Câu thơ “Mơ khách đường xa, khách đường xa” với từ “mơ” đã gợi ra trạng thái vô thức của con người, nhà thơ đang đắm chìm trong cõi mộng. Kết hợp với điệp ngữ “khách đường xa” nhằm nhấn mạnh khoảng cách xa rời, chỉ là khách trong mơ. Để rồi “Áo em trắng quá nhìn không ra”, ở đây với từ “quá” diễn tả sự choáng ngợp, thảng thốt; “nhìn không ra” cực tả sắc trắng, trắng một cách kì lạ, bất ngờ. Đây không còn là màu sắc thực nữa mà là màu trong tâm tưởng. Câu thơ tiếp theo “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh” gợi cho ta cách hiểu làn sương khói làm mờ ảo cả bóng người hay chính là tượng trưng cho một mối tình mong manh, xa vời, không trọn vẹn. Bài thơ được kết lại bằng một câu hỏi “Ai biết tình ai có đậm đà?. Đó là lời nhân vật trữ tình vừa là để hỏi người và vừa để hỏi mình, vừa gần gũi vừa xa xăm, vừa hoài nghi vừa như giận hờn, trách móc.

Từ việc khắc họa bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ được chuyển biến về không gian, thời gian để từ đó bộc lộ tâm trạng của nhân vật trữ tình. “Đây thôn Vĩ Dạ” quả là một trong những tác phẩm độc đáo của Hàn Mặc Tử.

Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 3

Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ nổi tiếng của nền thơ ca Việt Nam. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ. Bài thơ đã để lại cho người đọc sâu sắc về một hồn thơ thật độc đáo.

Đến với khổ thơ đầu tiên, người đọc sẽ cảm nhận được một bức tranh thiên nhiên nơi thôn Vĩ tuyệt đẹp:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Bài thơ được bắt đầu bằng một câu hỏi: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Câu hỏi gợi cho người đọc hai cách hiểu. Đó có thể là lời hỏi của người thôn Vĩ dành cho tác giả. Vì theo như lời được kể lại thì nguồn cảm hứng để Hàn Mặc Tử sáng tác bài thơ bắt nguồn từ lời thăm hỏi của cô gái thôn Vĩ khi nhà thơ đang mắc bệnh hiểm nghèo. Cô đã gửi một tấm bưu thiếp là bức tranh nơi thôn Vĩ cùng với lời nhắn gửi sao anh không về thăm lại thôn Vĩ. Đó cũng có thể là lời của chính tác giả, Hàn Mặc Tử đang tự phân thân để hỏi chính mình. Nhà thơ lúc này tuy khao khát, nhớ nhung quê hương nhưng không thể trở về. Dù hiểu theo cách nào thì chúng ta cũng thấy được nỗi nhớ quê cũng như mong muốn được về thôn Vĩ của nhà thơ.

Những câu thơ tiếp theo đã khắc họa hình ảnh thiên nhiên thôn Vĩ Dạ. Hình ảnh đầu tiên hiện ra: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Ánh nắng của buổi bình minh đã bao trùm khắp làng quê. Cách sử dụng điệp ngữ “nhìn nắng” – “nắng mới” thể hiện một không gian tràn đầy sức sống. Thứ ánh sáng của ngày mới đầy tinh khôi, ấm áp mang đến cho con người một luồng sinh khí mới. Tiếp đến câu thơ thứ ba lại là một câu hỏi tu từ: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. “Ai” là đại từ phiếm chỉ, nhà thơ không biết khu vườn kia là của ai. Từ “mướt” gợi cảm giác về một màu xanh của sự sống, lấp lánh khắp khu vườn. Cách so sánh “xanh như ngọc” khiến ta liên tưởng đến câu thơ của Xuân Diệu:

“Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền”

(Thơ duyên)

Cuối cùng, nhà thơ khắc họa vẻ đẹp của con người xứ Huế trong câu thơ: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Trong không gian thiên nhiên đó, con người chỉ thoáng xuất hiện. Hình ảnh trên lại gợi cho người đọc hai cách hiểu. Khuôn mặt chữ điền của người thôn Vĩ thấp thoáng sau tán trúc. Khuôn mặt chữ điền gợi ra vẻ hiền lành phúc hậu, phải chăng đó là khuôn mặt của người con gái Hàn Mặc Tử thầm thương? Hay cũng có thể đó là khung cửa sổ hình chữ điền thấp thoáng sau lá trúc. Dù là cách hiểu nào thì Hàn Mặc Tử cũng đều muốn thể hiện vẻ đẹp của con người xứ Huế cũng như tình cảm dành cho con người, cảnh vật nơi đây.

Đối lập với bức tranh thiên nhiên đầy tươi sáng nơi thôn Vĩ, là bức tranh sông nước đêm trăng:

“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”

Hai câu thơ mở đầu của khổ thơ thứ hai, tuy là tả cảnh nhưng khi đọc lên lại thấy nhuốm màu tâm trạng. Hình ảnh thiên nhiên gợi ra sự chia ly “gió theo lối gió, mây đường mây”. Nếu trong tự nhiên, gió và mây vốn là những sự vật luôn quấn quýt, gắn bó với nhau thì ở đây Hàn Mặc Tử lại để “mây và gió” chia cách đôi ngả. Ta tự hỏi đó là sự chia ly của thiên nhiên hay của chính con người? Và đến cả dòng nước – một sự vật vô tri, vô giác nhưng qua cái nhìn của nhà thơ giờ đây cũng có cảm xúc. Dòng nước “buồn thiu” – biện pháp tu từ nhân hóa khiến con sông giống như một con người, có tâm trạng. Cuối cùng là hình ảnh “hoa bắp lay” – bông hoa bắp nhỏ bé trôi theo dòng nước cũng giống như cuộc đời lưu lạc trôi nổi của con người.

Và bức tranh sông nước trong đêm trăng thì sao có thể thiếu mất đi ánh trăng:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

“Trăng” đã trở thành một biểu tượng quen thuộc của thi ca. Đặc biệt trong thơ Hàn Mặc Tử thì ánh trăng xuất hiện rất nhiều. Trăng có lúc được ẩn dụ, lúc được nhân hóa làm cho nó mang một phong cách độc đáo và khác lạ, kiểu như:

“Trăng nằm sóng soài trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi”

(Bẽn lẽn)

Hay ánh trăng có lúc trở nên thật điên cuồng:

“Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra”

(Say trăng)

Còn ở “Đây thôn Vĩ Dạ” lại là “sông trăng” – gợi ra hình ảnh ánh trăng vàng in bóng xuống mặt nước. Ánh trăng lan tỏa ra khắp dòng sông tạo nên một dòng sông trăng. Kết thúc khổ thơ là câu hỏi tu từ “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Từ “kịp” được tác giả sử dụng nhằm thể hiện tâm trạng lo âu. Bởi với một người bình thường, nếu không kịp trở về vào “tối nay” thì sẽ còn những đêm khác, Còn với Hàn Mặc Tử, thì đêm nào cũng có thể là đêm cuối cùng.

Khổ thơ cuối là dòng tâm trạng của nhân vật trữ tình:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Giữa không gian mơ hồ giữa “ảo và mộng” của “cảnh và người”. Khung cảnh vận động từ thực đến ảo, từ khu vườn thôn Vĩ Dạ đến sông trăng và cuối cùng chìm vào tâm thức mờ ảo của sương khói. Điệp ngữ “khách đường xa” như một tiếng gọi tha thiết, Hàn Mặc Tử nhớ về quê hương để rồi phải mặc cảm trong sự chia cách. Câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” là lời nhân vật trữ tình vừa là để hỏi người và vừa để hỏi mình, nửa gần gũi nửa xa xăm, nửa hoài nghi nửa như giận hờn, trách móc. Khi dùng đại từ phiếm chỉ “ai” làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng của một tâm hồn khát khao được sống, được yêu. Câu thơ làm nhòe mờ hình tượng của khách thể và chủ thể trữ tình, tạo nên một nỗi ám ảnh về nỗi đau trong cõi mênh mông vô tận, tâm trạng hụt hẫng và đầy tuyệt vọng của nhà thơ.

Qua phân tích trên, người đọc có thể cảm nhận được một hồn thơ mãnh liệt, luôn khát khao giao cảm với cuộc đời của Hàn Mặc Tử. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” khơi gợi được những cảm xúc trong sáng mà đầy sâu sắc.

Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 4

Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chói lọi diệu kỳ trong vòm trời rực rỡ lấp lánh nhiều tinh tú lạ. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông phải kể đến bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.

Bài thơ có lẽ là lời trách thầm, và cũng là lời nhắn nhủ nhẹ nhàng gửi gắm của nhân vật trữ tình, trong một tâm trạng vời vợi nhớ mong:

“Sao anh không về chơi thôn Vi?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền?”

Nếu như mỗi tình yêu đều gắn với một không gian và thời gian cụ thể, thì mỗi hình ảnh của nhân vật trữ tình trong bài thơ này gắn với vườn tược và con người Vĩ Dạ, đều những kỉ niệm thật khó quên. Có dịp, xin mời bạn hãy về thăm thôn Vĩ vào một buổi sớm mai Vĩ Dạ nằm ngay bên bờ sông Hương êm đềm thơ mộng, chỉ cách trung tâm cố đô Huế khoảng không đầy một giờ tản bộ. Từ xưa, thôn Vĩ Dạ đã nổi tiếng bởi cây cối xanh tươi, và những biệt thự nhỏ nhắn duyên dáng, thấp thoáng, tưới màu xanh của cây lá. Thôn Vĩ Dạ cũng nổi tiếng như sông Hương, núi Ngự, chùa Thiên Mụ… của xứ này. Bởi vậy, ta không lấy làm ngạc nhiên khi thấy nhiều nghệ sĩ tên tuổi như Nguyễn Bính, Bích Khuê, Nguyễn Tuân… đều có những cảm giác mà cảm hứng được nảy sinh từ thôn Vĩ Dạ nên thơ.

Sớm mai, nắng mới long lanh trên những tàu cau còn ướt sương đêm. Khách từ xa tới sẽ thấy hàng cau trước nhất, vì nó thường cao hơn hẳn những cây cối xum xuê ở dưới. Đất đai Vĩ Dạ phì nhiêu, được con người cần cù chăm bón; quả thật, cây cối ở đây xanh tốt mơn mởn và sạch sẽ như được lau chùi, mài giũa thành như những cành vàng lá ngọc…

Thật là một sáng tạo độc đáo. “Mặt chữ điền” gợi cho người đọc nhớ tới hình ảnh người dân có khuôn mặt vuông vức, thân hình cường tráng, đầy nam tính. Nhưng, khi hình tượng này đặt trong chính thể đoạn thơ và câu thơ: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” thì ấn tượng nổi bật lại là sự hài hòa, gắn bó mật thiết giữa con người với vườn tược quê hương. Như vậy, câu thơ còn khắc họa thành công một nét đáng nhớ; đáng yêu của thôn Vĩ: Cảnh đẹp đẽ, tốt tươi; con người đôn hậu giàu sức sống.

Tiếp nối mạch cảm xúc của khổ đầu, dường như khổ thứ hai, nhà thơ miêu tả cảnh thiên nhiên sông nước đêm trăng:

“Gió theo lối gió mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu hoa bắp bay;
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Nhịp điệu dịu dàng, khoan thai của xứ Huế được khắc họa thành công: Gió và mây nhè nhẹ trôi đi; sông Hương nước chảy lặng lờ. Hoa ngô (hoa bắp) chi khẽ đung đưa theo chiều gió. Khác với khố một, đến khổ thứ hai này, không gian được miêu tả như trong mộng ảo, tràn ngập ánh trăng. Nhà thơ không những chỉ ta, không những chỉ nhìn bằng mắt mà điều quan trọng hơn là còn “nhìn” bằng thế giới tâm linh của mình: Do đó, không có biên giới giữa thực và mộng và dường như càng về cuối thế giới tâm linh, thế giới mộng ảo càng lấn át thế giới hiện thực. Vì là mộng ảo, nên có nỗi băn khoăn rất mộng mơ: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/Có chở trăng về kịp tối nay?”. Thuyền trăng thì có nhiều thi nhân nhắc đến. nhưng “sông Trăng” thì có lẽ Hàn Mặc Tử là người sáng tạo đầu tiên. Dường như trong những câu thơ trên, có sự mong chờ, niềm hy vọng, lẫn nỗi buồn man mác của nhà thơ, ở đây rõ ràng, không có sự đặc sắc của một bút pháp phác họa đúng linh hồn của một xứ sở, mà điều quan trọng nữa là: Những nét phác họa ấy gợi lên ở người đọc một tình yêu thật dịu dàng, kín đáo, mà sâu xa rộng mở đến khôn cùng. Ấn tượng của người đọc về những điều nói trên sẽ được nhà thơ tô đậm qua khổ kết:

Xem thêm :  Soạn sử 8 bài 4 phong trào công nhân và sự ra đời của chủ nghĩa mác

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Đúng là xứ Huế vốn mưa nhiều, lắm sương khói. Do đó, phải chăng khổ thơ trên có nét tả thực, cũng giống như “hàng cau”, “lá trúc” “hoa bắp”… ở những khổ thơ trước? Sương khói trắng, và áo em cũng trắng: Bởi vậy, nếu nhà thơ chỉ nhìn thấy bóng người thôi (nhân ảnh), thì cũng là điều dễ hiểu. Tuy vậy, như đã nêu, Hàn Mặc Tử vốn là nhà thơ lãng mạn đích thực, cái chính là thi sĩ đã nói bằng tâm tưởng, gieo vào lòng người đọc một thoáng bâng khuâng: Người thiếu nữ Huế tươi đẹp quá, kín đáo và huyền ảo quá; nào ai có biết tình yêu của họ bền chặt, hay cũng chỉ mờ ảo như khói sương xứ Huế? Ở đây, dường như tác giả cảm thấy mình chơi vơi hụt hẫng, trước một mối tình đơn phương lung linh, huyền ảo. Nếu nhận ra rằng. Hàn Mặc Tử vốn là người rất mực tài hoa, luôn khao khát yêu thương; nhưng căn bệnh phong hiểm nghèo đã làm ông không có được một tình yêu trọn vẹn. Nhà thơ đã từng phải sống có độc, lúc thì trong một con thuyền nhỏ lênh đênh chẳng có bến bờ, lúc thì khắc khoải bên dãy núi ven thành phố, và cuối cùng phải nằm vô vọng ở nhà thương Tuy Hòa chờ cái chết… Ta càng thông cảm cho một thoáng hờn dỗi, trách móc tưởng như vô cớ của cây bút đa tài, mà bất hạnh này. Phải yêu người Vĩ Dạ, nói rộng ra là phải yêu người xứ Huế; hiểu xứ Huế, gắn bó với xứ Huế sâu sắc đến độ nào, thì thi sĩ mới nói về tình yêu, về xứ Huế đứng và hay như thế.

Như vậy, bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” đã để lại cho người đọc một ấn tượng sâu sắc về thiên nhiên của nơi thôn Vĩ. Cũng như nỗi niềm tâm trạng của nhà thơ Hàn Mặc Tử được gửi gắm trong bài thơ.

Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 5

Đến với “Đây thôn Vĩ Dạ” của nhà thơ Hàn Mặc Tử có lẽ người đọc sẽ cảm thấy ấn tượng với bức tranh thiên nhiên tràn đầy sức sống nơi thôn Vĩ. Điều đó được thể hiện qua khổ thơ đầu của bài thơ:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Câu thơ mở đầu là một câu hỏi mang nhiều ý nghĩa. Đây có thể là lời hỏi của người thôn Vĩ dành cho tác giả. Vì theo như lời được kể lại thì nguồn cảm hứng để Hàn Mặc Tử sáng tác bài thơ bắt nguồn từ lời thăm hỏi của cô gái thôn Vĩ khi nhà thơ đang mắc bệnh hiểm nghèo. Cô đã gửi một tấm bưu thiếp là bức tranh nơi thôn Vĩ cùng với lời nhắn gửi sao anh không về thăm lại thôn Vĩ. Cũng có thể là lời của chính tác giả, Hàn Mặc Tử đang tự phân thân để hỏi chính mình. Nhà thơ lúc này dù khao khát, nhớ nhung quê hương nhưng không thể trở về. Dù hiểu theo cách nào thì chúng ta cũng thấy được nỗi nhớ quê cũng như mong muốn được về thôn Vĩ của nhà thơ.

Đến câu thơ thứ hai, bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ bắt đầu được nhà thơ khắc họa với những nét đẹp: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Đây là ánh nắng của buổi bình minh bao trùm khắp không gian làng quê. Cách sử dụng điệp ngữ “nhìn nắng” – “nắng mới” thể hiện một không gian tràn đầy sức sống. Thứ ánh sáng của ngày mới đầy tinh khôi, ấm áp mang đến cho con người một luồng sinh khí mới. Còn hình ảnh “hàng cau” lấp lánh trong nắng. Cau là loại cây thân thẳng, cao lớn nhất trong khu vườn nên đã đón được ánh nắng đầu tiên của một ngày.

Câu thơ thứ ba gợi ra một không gian ngập tràn màu xanh: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Khu vườn này không rõ là của “ai”. Chỉ biết nó được chăm sóc rất cẩn thận. Khắp nơi đều tràn ngập màu xanh của cây cối. “Xanh như ngọc” gợi một màu xanh trong sáng, ẩn chứa ánh sáng của sự sống. Từ “quá” bộc lộ sự trầm trồ, khen ngợi của nhà thơ dành cho khu vườn.

Và bức tranh thiên nhiên kết lại bằng hình ảnh con người thoáng xuất hiện: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. “Mặt chữ điền” gợi ra vẻ hiền lành phúc hậu. Hàn Mặc Tử như nhìn thấy khuôn mặt ai thấp thoáng sau lá trúc. Phải chăng đó là khuôn mặt của người con gái Hàn Mặc Tử thầm thương? Qua đây, nhà thơ muốn khắc họa vẻ đẹp của con người xứ Huế cũng như tình cảm dành cho con người, cảnh vật nơi đây.

Tiếp đến, ở khổ thơ thứ hai là bức tranh sông nước đêm trăng gợi ra sự chia ly:

“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Nếu ở khổ thơ đầu, thiên nhiên hiện lên tràn đầy sức sống với những gam màu tươi tắn. Thì ở khổ này, cảnh vật lại nhuốm màu buồn bã. Nguyễn Du đã từng viết: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Quả vật, với con mắt tràn đầy đau đớn và mặc cảm, Hàn Mặc Tử đã khắc họa một bức tranh thiên nhiên đẹp đấy nhưng buồn đấy. Nếu như ở khổ thơ thứ nhất, bức tranh thiên nhiên được miêu tả với những gam màu tươi tắn của buổi sớm mai thì ở khổ thơ này, dòng thời gian đã vận động, chuyển mình qua khung cảnh gió mây, trăng nước. Theo quy luật thông thường của thiên nhiên, gió và mây luôn là hai hình ảnh sóng đôi “gió thổi, mây bay”, nhưng qua những câu thơ của chàng thi sĩ họ Hàn, gió – mây lại hiện lên trong mối quan hệ đối lập của sự chia lìa, xa cách, trôi nổi và tượng trưng cho nỗi trống vắng, cô đơn trong tâm trạng của nhân vật trữ tình. Không chỉ dừng lại ở đó, khung cảnh còn được bao phủ bởi bức màn của nỗi buồn qua những hình ảnh giàu sức gợi như “dòng nước buồn thiu”. Với tính từ “buồn thiu” kết hợp biện pháp nhân hóa, dường như nỗi buồn mang sắc thái chia phôi của gió và mây đã thấm vào sông nước, khiến dòng thủy lưu mang nặng nỗi buồn của thiên nhiên tạo vật. Và trong khung cảnh đó, ánh trăng xuất hiện và bao trùm không gian, làm nên một liên tưởng độc đáo về sông trăng, thuyền trăng. Trong mặc cảm chia lìa, ánh trăng hiện lên trong nỗi lo âu, khắc khoải “Có chở trăng về kịp tối nay?” đã làm nổi bật hơn nữa nỗi bồn chồn cùng tâm trạng xót xa, đau đớn cùng nỗi ám ảnh về khát khao giao cảm với đời của nhân vật trữ tình.

Những câu thơ cuối cùng là dòng tâm trạng được khắc họa nổi bật qua không gian vừa thực vừa ảo. Khung cảnh thiên nhiên với vườn thôn Vĩ, nắng sớm mai, hàng cau, lá trúc, gió mây, dòng nước, thuyền trăng, sông trăng biến mất và nhường chỗ cho hình bóng “khách đường xa” trong ảo mộng. “Áo em trắng quá” phải chăng là ẩn dụ cho bóng dáng của người con gái từng xuất hiện trong thi ảnh “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Khung cảnh cũng vận động từ thực đến ảo, từ vườn thôn Vĩ đến sông trăng và cuối cùng chìm vào tâm thức mờ ảo của sương khói “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”. Dường như “sương khói” là tác nhân làm mờ đi, nhòa đi bóng dáng con người và tình người. Thi nhân đã cố gắng níu kéo trong khát khao giao cảm với hồn người, tình người nhưng tất cả chỉ là sương khói mờ ảo. Bài thơ được kết thúc bởi câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” xoáy sâu hơn nữa bi kịch của nhân vật trữ tình. Đại từ phiếm chỉ “Ai” được điệp lại hai lần khiến câu thơ ngân dài và vang xa, làm nhòe mờ hình tượng của khách thể và chủ thể trữ tình, tạo nên một nỗi ám ảnh về nỗi đau trong cõi mênh mông tận cùng. Đó là nỗi tuyệt vọng của một tâm hồn khát khao giao cảm với đời nhưng mãi mãi không được cộng hưởng và hồi đáp.

Tóm lại, “Đây thôn Vĩ Dạ” đã gợi cho người đọc cảm nhận về một hồn thơ độc đáo của Hàn Mặc Tử. Đúng như nhà thơ Chế Lan Viên đã từng khẳng định: “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”.

Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 6

Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã từng nhận xét về nhà thơ Hàn Mặc Tử: “Vườn thơ Hàn rộng không bờ bến nhưng càng đi xa càng thấy lạnh”. Khi đọc bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, người đọc đã cảm nhận rõ hơn về những nhận định trên.

Mở đầu bài thơ là câu hỏi tu từ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” mang nhiều ý nghĩa. Đó có thể là một lời trách móc nhẹ nhàng tại sao đã lâu rồi mà anh không về chơi vườn thôn Vĩ, cũng có thể là lời tự vấn của chính tác giả nhằm bộc lộ khao khát được trở về thôn Vĩ. Từ đó, nhà thơ bắt đầu miêu tả bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ. Đầu tiên là hình ảnh ánh nắng buổi bình minh đang len lỏi trên cành cây kẽ lá, quyện hòa làm nên thi ảnh độc đáo “nắng hàng cau”. Chiều không gian thay đổi với vẻ đẹp của khu vườn thôn Vĩ trong gam màu “mướt quá xanh như ngọc” gợi lên sự xanh non, tươi mới và trong trẻo. Và trong những gam màu tươi sáng đó, hình ảnh con người xuất hiện trong mối quan hệ giao hòa: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Câu thơ gợi ra hình ảnh con người thấp thoáng cùng sự bí ẩn, gợi ra nhiều cách giải mã trong lòng độc giả. Đó phải chăng là khuôn mặt của người thiếu nữ ẩn hiện sau khóm trúc, lá trúc cắt ngang tạo nên khuôn mặt chữ điền? Hay là khuôn mặt tượng trưng cho vẻ đẹp phúc hậu của con người xứ Huế? Với tài năng trong việc sử dụng ngôn từ, tác giả Hàn Mặc Tử đã kiến tạo nên những hình ảnh, thi liệu đa nghĩa và giàu sắc thái biểu đạt để phác họa bức tranh về thiên nhiên, cảnh vật và con người xứ Huế.

Tiếp đến khổ thơ thứ hai, tác giả lại gợi lên không gian của sự chia lìa, xa cách đượm buồn hiu hắt và lung linh, huyền ảo:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Nếu ở khổ thơ thứ nhất, bức tranh thiên nhiên được miêu tả với những gam màu tươi tắn của buổi sớm mai thì ở khổ thơ này, dòng thời gian đã vận động, chuyển mình qua khung cảnh gió mây, trăng nước. Theo như quy luật thông thường, gió và mây luôn là hai hình ảnh sóng đôi “gió thổi, mây bay”. Nhưng ở đây hình ảnh “gió – mây” lại hiện lên trong mối quan hệ đối lập của sự chia lìa, xa cách. Không chỉ dừng lại ở đó, khung cảnh còn được bao phủ bởi bức màn của nỗi buồn qua những hình ảnh giàu sức gợi như “dòng nước buồn thiu”. Với tính từ “buồn thiu” kết hợp biện pháp nhân hóa, dường như nỗi buồn mang sắc thái chia phôi của gió và mây đã thấm vào sông nước, khiến dòng thủy lưu mang nặng nỗi buồn của thiên nhiên tạo vật. Và trong khung cảnh đó, ánh trăng xuất hiện và bao trùm không gian, làm nên một liên tưởng độc đáo về sông trăng, thuyền trăng. Trong mặc cảm chia lìa, ánh trăng hiện lên trong nỗi lo âu, khắc khoải “Có chở trăng về kịp tối nay?” đã làm nổi bật hơn nữa nỗi bồn chồn cùng tâm trạng xót xa, đau đớn cùng nỗi ám ảnh về khát khao giao cảm với đời của nhân vật trữ tình.

Dòng tâm trạng của nhân vật trữ tình tiếp tục được làm nổi bật qua không gian vừa thực vừa ảo mộng:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Khung cảnh thiên nhiên đã nhường chỗ cho hình bóng “khách đường xa” trong ảo mộng. Cụm từ “áo em trắng quá” phải chăng là ẩn dụ cho bóng dáng của người con gái từng xuất hiện trong thi ảnh “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Khung cảnh cũng vận động từ thực đến ảo, từ vườn thôn Vĩ đến sông trăng và cuối cùng chìm vào tâm thức mờ ảo của sương khói “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”. Dường như “sương khói” là tác nhân làm mờ đi, nhòa đi bóng dáng con người và tình người. Thi nhân đã cố gắng níu kéo trong khát khao giao cảm với hồn người, tình người nhưng tất cả chỉ là sương khói mờ ảo. Bài thơ được kết thúc bởi câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” xoáy sâu hơn nữa bi kịch của nhân vật trữ tình. Đại từ phiếm chỉ “ai” được điệp lại hai lần khiến câu thơ ngân dài và vang xa, làm nhòe mờ hình tượng của khách thể và chủ thể trữ tình, tạo nên một nỗi ám ảnh về nỗi đau trong cõi mênh mông tận cùng.

“Đây thôn Vĩ Dạ” đã cho người đọc cảm nhận về một bức tranh thiên nhiên với tâm hồn của một người thi sĩ khát khao giao cảm với tình đời, tình người trong nỗi ám ảnh, khắc khoải và xót xa.

Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 7

Hàn Mặc Từ là một nhà thơ tiêu biểu trong phong trào thơ mới. Thơ của ông nổi bật với những đường nét và màu sắc riêng khi thì táo bạo ấn tượng, khi thì thanh trong thoát tục. Đặc biệt là bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” đã để lại nhiều tình cảm trong trẻo trong lòng người đọc.

Bài thơ bắt đầu với câu hỏi tu từ:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Khi làm bài thơ này, Hàn Mạc Tử đang ở trại phong Tuy Hòa và nhận được bức ảnh của Hoàng Cúc về miền quê xứ Huế. Ông theo đó mà miêu tả những đường nét của xứ Huế qua trí nhớ mà bức ảnh gợi lại. Câu hỏi tu từ đã bộc lộ khao khát của nhà thơ mong muốn được trở về thôn Vĩ. Từ đó, bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ Dạ hiện lên với vẻ đẹp:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Trong tưởng tượng của người đọc, bức tranh tươi đẹp về thiên nhiên, con người xứ Huế được hiện lên nên thơ, yên bình. Màu sắc nổi bật là màu nắng tươi mới trên bầu trời cao xanh. Cùng với đó là từ “mướt” trong câu thơ gợi cho người đọc cảm giác xanh tươi lạ thường, có liên tưởng mảnh vườn nhỏ y như một viên ngọc thanh thoát mà đồng nội giữa cảnh sắc xứ Huế. Đặc biệt, hình ảnh con người xứ Huế hiện lên hiền lành, đôn hậu với “khuôn mặt chữ điền” ấn lấp sau lá trúc, một biểu tượng cho sự thanh tao của người quân tử. Có thể đó là khuôn mặt dễ mến, đôn hậu của con người xứ Huế trong tâm thức nhà thơ cũng có thể là hình ảnh người con gái Huế thân thương dịu dàng.

Đến khổ thơ thứ hai, nhà thơ lại khắc họa bức tranh thiên nhiên sông nước đêm trăng:

“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…”

“Gió” và “mây” vốn là hai hiện tượng thân thiết nhưng ở câu thơ của Hàn Mạc Tử thì lại mỗi thứ một đường, tạo một sự chia xa khó tả. Không chỉ có vậy, sự êm đềm của dòng sông xứ Huế lại tạt vào lòng người cảm giác “buồn thiu”, những cánh hoa bắp “lay” cũng gợi sự mỏng manh yếu ớt khiến cho cả không gian nhuốm màu thê lương, buồn bã. Trong khung cảnh thiên nhiên đó, câu hỏi cất lên:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Câu hỏi nhẹ nhàng nhưng nặng trĩu sự lo lắng, sự thấp thỏm, không biết liệu rằng có còn kịp hay không? Kịp để nhìn thấy sự tươi đẹp của cuộc đời, của con người, có kịp làm điều mong ước, tất cả đều là sự khát khao giao cảm đến tột cùng khi con người ta phải xa với đời trong chốn cô đơn và ngày ngày chờ đến lời phán quyết cuối cùng của cuộc đời mình.

Ở đoạn thơ thứ ba, khát khoa này càng bộc lộ rõ hơn bao giờ hết:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Điệp từ “khách đường xa” được lập lại như thể nhấn mạnh sự ước ao, sự lưu ý bao nhiêu ngày tháng. Màu trắng là màu sắc rất hay xuất hiện trong thơ của Hàn Mạc Tử, luôn là biểu hiện của sự tinh khôi thanh khiết, giống y như nàng trinh nữ, lúc nào cũng trắng trong tuyệt vời. Nhưng có lẽ do màu trắng tinh khôi của áo mà trong giấc mơ của mình, Hàn Mạc Tử đã không thể nhìn rõ cô gái, bởi sương khói mông lung đã làm mờ nhạt cả trí nhớ, chỉ còn lại sự thanh khiết không gì nhạt phai. Kết thúc bài thơ, một câu hỏi tu từ lại được thốt lên hết sức thiết tha: “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Câu hỏi tu từ với đại từ phiếm chỉ “ai” như bộc lộ một niềm khao khát được sống, được yêu thương.

“Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong số ít những bài thơ không mang những nét u buồn thất vọng về cuộc đời nhưng cũng không hẳn là mang âm hưởng vui tươi. Tuy nhiên người đọc vẫn nhận ra những tình cảm hết sức sâu sắc, yêu đời, yêu đời và khát khao giao.

Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 8

Hàn Mặc Từ là một trong những nhà thơ nổi tiếng thuộc trường phái thơ điên. Các tác phẩm của ông đều mang đậm phong cách sáng tác độc đáo. Một trong những bài thơ nổi tiếng phải kể đến “Đây thôn Vĩ Dạ”.

Ở khổ thơ thứ nhất, Hàn Mặc Tử đã khắc họa bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ đầy tươi sáng:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Câu hỏi tu từ mở đầu bài thơ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” đã gợi cho người đọc hai cách hiểu. Cách hiểu đầu tiên đây có thể là lời hỏi của người thôn Vĩ dành cho tác giả. Vì theo như lời được kể lại thì nguồn cảm hứng để Hàn Mặc Tử sáng tác bài thơ bắt nguồn từ lời thăm hỏi của cô gái thôn Vĩ khi nhà thơ đang mắc bệnh hiểm nghèo. Cô đã gửi một tấm bưu thiếp là bức tranh nơi thôn Vĩ cùng với lời nhắn gửi sao anh không về thăm lại thôn Vĩ. Nhưng đó cũng chính là lời tự hỏi của Hàn Mặc Tử đang tự phân thân để hỏi chính mình. Cả hai cách hiểu đều cho người đọc cảm nhận được nỗi nhớ quê cũng như khao khát được trở về thôn Vĩ của nhà thơ.

Bức tranh thiên nhiên được khắc họa qua những hình ảnh giản dị. Đó là khu vườn thôn Vĩ với “nắng hàng cau”. Điệp ngữ vòng “nhìn nắng” – “nắng mới” thể hiện một không gian tràn đầy sức sống. Thứ ánh sáng của ngày mới đầy tinh khôi, ấm áp mang đến cho con người một luồng sinh khí mới. Khu vườn ấy không chỉ có màu vàng của ánh nắng mà còn có màu xanh của cây cối “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. “Ai” là đại từ phiếm chỉ, nhà thơ không biết khu vườn kia là của ai. Từ “mướt” gợi cảm giác về một màu xanh của sự sống, lấp lánh khắp khu vườn. Trong không gian thiên nhiên ấy, con người thấp thoáng hiện ra: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Hình ảnh trên lại gợi cho người đọc hai cách hiểu. Khuôn mặt chữ điền của người thôn Vĩ thấp thoáng sau tán trúc. Khuôn mặt chữ điền gợi ra vẻ hiền lành phúc hậu, phải chăng đó là khuôn mặt của người con gái Hàn Mặc Tử thầm thương? Hay cũng có thể đó là khung cửa sổ hình chữ điền thấp thoáng sau lá trúc. Như vậy, người đọc có thể cảm nhận được tình cảm sâu sắc của nhà thơ dành cho thôn Vĩ.

Đến khổ thơ tiếp theo, Hàn Mặc Tử đã khắc họa bức tranh sông nước đêm trăng hoàn toàn đối lập với thiên nhiên thôn Vĩ Dạ:

“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”

Nếu trong tự nhiên, gió và mây vốn sóng đôi cùng nhau. Thì trong thơ Hàn Mặc Tử, gió và mây lại gợi sự chia lìa, xa cách: “gió theo lối gió, mây đường mây”. Ta tự hỏi đó là sự chia ly của thiên nhiên hay của chính con người? Và đến cả dòng nước – một sự vật vô tri, vô giác nhưng qua cái nhìn của nhà thơ giờ đây cũng có cảm xúc. Dòng nước “buồn thiu” – biện pháp tu từ nhân hóa khiến con sông giống như một con người, có tâm trạng. Cuối cùng là hình ảnh “hoa bắp lay” – bông hoa bắp nhỏ bé trôi theo dòng nước cũng giống như cuộc đời lưu lạc trôi nổi của con người.

Bức tranh thiên nhiên xuất hiện trong đêm trăng:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

“Trăng” đã trở thành một biểu tượng quen thuộc của thi ca. Nếu trong thơ Lí Bạch, ánh trăng gợi nhớ về quê hương:

“Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương”

Hay trăng trong thơ của Bác Hồ đã thể hiện được tình yêu thiên nhiên cũng như tâm hồn thư thái, lạc quan của Bác dù trong hoàn cảnh ngục tù.

“Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”

Thì trong “Đây thôn Vĩ Dạ” lại là “sông trăng” – gợi ra hình ảnh ánh trăng vàng in bóng xuống mặt nước. Ánh trăng lan tỏa ra khắp dòng sông tạo nên một dòng sông trăng. Kết thúc khổ thơ là câu hỏi tu từ “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Từ “kịp” được tác giả sử dụng nhằm thể hiện tâm trạng lo âu. Bởi với một người bình thường, nếu không kịp trở về vào “tối nay” thì sẽ còn những đêm khác, Còn với Hàn Mặc Tử, thì đêm nào cũng có thể là đêm cuối cùng.

Cuối cùng, nhà thơ đã khắc họa tâm trạng của nhân vật trữ tình:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Giữa không gian mơ hồ giữa “ảo và mộng” của “cảnh và người”. Khung cảnh vận động từ thực đến ảo, từ khu vườn thôn Vĩ Dạ đến sông trăng và cuối cùng chìm vào tâm thức mờ ảo của sương khói. Điệp ngữ “khách đường xa” như một tiếng gọi tha thiết, Hàn Mặc Tử nhớ về quê hương để rồi phải mặc cảm trong sự chia cách. Câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” là lời nhân vật trữ tình vừa là để hỏi người và vừa để hỏi mình, nửa gần gũi nửa xa xăm, nửa hoài nghi nửa như giận hờn, trách móc. Khi dùng đại từ phiếm chỉ “ai” làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng của một tâm hồn khát khao được sống, được yêu. Câu thơ làm nhòe mờ hình tượng của khách thể và chủ thể trữ tình, tạo nên một nỗi ám ảnh về nỗi đau trong cõi mênh mông vô tận, tâm trạng hụt hẫng và đầy tuyệt vọng của nhà thơ.

Như vậy, bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” đã cho người đọc cảm nhận về một bức tranh thiên nhiên đẹp về một miền quê đất nước, là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người.

Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ khá tiêu biểu cho phong cách thơ của Hàn Mặc Tử. Tác phẩm này sẽ được giới thiệu đến các bạn học sinh trong chương trình Ngữ văn lớp 11.

Xem thêm :  5 giáo trình học tiếng anh cho người mới bắt đầu (2021)

Dưới đây là tài liệu Bài văn mẫu lớp 11: Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, bao gồm dàn ý và 8 bài văn mẫu, mời bạn đọc tham khảo.

Dàn ý cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

I. Mở bài

– Giới thiệu về tác giả Hàn Mặc Tử, bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.

– Cảm nhận chung về bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.

II. Thân bài

1. Bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ

* Câu 1: Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

– Câu hỏi có hai cách hiểu:

  • Lời của người thôn Vĩ hỏi tác giả
  • Lơi phân thân của tác giả tự hỏi chính mình

=> Dù hiểu theo cách nào thì câu hỏi trên cũng thể hiện được nỗi nhớ thôn Vĩ da diết cũng như mong muốn được về chơi thôn Vĩ.

* Câu 2: Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

– Hình ảnh “nắng hàng cau”: ánh nắng của bao trùm khắp làng quê.

– Điệp ngữ: “nhìn nắng” – “nắng mới” thể hiện một không gian tràn đầy ánh nắng sức sống.

* Câu 3:

– Khu vườn không chỉ tràn ngập sắc nắng mà còn sắc xanh.

– “xanh như ngọc” một màu xanh mát mẻ, tươi mới và dễ chịu.

* Câu 4: Lá trúc che ngang mặt chữ điền

– Trong không gian thiên nhiên thôn Vĩ, hình ảnh con người thoáng xuất hiện:

– Khuôn mặt chữ điền của người thôn Vĩ thấp thoáng sau tán trúc. Khuôn mặt chữ điền gợi ra vẻ hiền lành phúc hậu, phải chăng đó là khuôn mặt của người con gái Hàn Mặc Tử thầm thương?

=> Bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ trong sáng, tươi tắn và có sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên.

2. Bức tranh sông nước trong đêm trăng

* Câu 5 và câu 6:

– Hình ảnh thiên nhiên thể hiện sự chia lìa: gió, mây vốn quấn quýt nay chia lìa đôi ngả.

– Dòng sông như nhuốm màu tâm trạng buồn bã, thê lương.

– Hình ảnh hoa bắp khẽ lay cũng giống như cuộc đời lưu lạc trôi nổi của con người.

* Câu 11: Ở đây sương khói mờ nhân ảnh gợi khung cảnh huyền ảo, không có thật.

=> Hình ảnh thiên nhiên đêm trăng đượm buồn và mờ ảo, hư không.

=> Sự đối lập giữa hai bức tranh thiên nhiên nơi làng quê thôn Vĩ và đêm trăng.

3. Tâm trạng của nhà thơ

– Khung cảnh cũng vận động từ thực đến ảo, từ vườn thôn Vĩ đến sông trăng và cuối cùng chìm vào tâm thức mờ ảo của sương khói.

– Câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” là lời nhân vật trữ tình vừa là để hỏi người và vừa để hỏi mình, vừa gần gũi vừa xa xăm, vừa hoài nghi vừa như giận hờn, trách móc.

– Đại từ phiếm chỉ “ai” làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng của một tâm hồn khát khao được sống, được yêu.

=> Làm nhòe mờ hình tượng của khách thể và chủ thể trữ tình, tạo nên một nỗi ám ảnh về nỗi đau trong cõi mênh mông vô tận, tâm trạng hụt hẫng và đầy tuyệt vọng của nhà thơ.

III. Kết bài

– Cảm nhận về bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.

Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 1

Một trong những tác giả tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam là Hàn Mặc Tử. Nổi bật trong các sáng tác của ông là bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”. Tác phẩm đã khắc họa bức tranh thiên nhiên đẹp về một miền quê đất nước, là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người.

Khi đọc “Đây thôn Vĩ Dạ”, người đọc sẽ cảm thấy ấn tượng đầu tiên với bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Câu hỏi tu từ đầu tiên gợi về hai cách hiểu. Đó có thể là lời hỏi của người thôn Vĩ hỏi tác giả đã lâu rồi sao không về chơi thôn Vĩ. Hoặc có thể là lơi phân thân của tác giả vì quá khao khát được về thăm thôn Vĩ mà tự hỏi chính mình. Nhưng dù hiểu theo cách nào thì câu hỏi trên cũng thể hiện được nỗi nhớ thôn Vĩ da diết cũng như mong muốn được về chơi thôn Vĩ.

Tiếp đến, bức tranh thiên nhiên dần hiện ra với những nét khắc họa. Hình ảnh “nắng hàng cau” gợi ra ánh nắng bao trùm khắp không gian làng quê. Kết hợp với điệp ngữ: “nhìn nắng” – “nắng mới” cho thấy sức sống bao trùm khắp không gian. Nhưng khu vườn không chỉ tràn ngập sắc nắng mà còn sắc xanh. Đó là màu “xanh như ngọc” – một màu xanh mát mẻ, tươi mới và dễ chịu. Và trong không gian thiên nhiên thôn Vĩ, hình ảnh con người thoáng xuất hiện. Khuôn mặt chữ điền của người thôn Vĩ thấp thoáng sau tán trúc. Khuôn mặt chữ điền gợi ra vẻ hiền lành phúc hậu, phải chăng đó là khuôn mặt của người con gái Hàn Mặc Tử thầm thương? Như vậy, bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ trong sáng, tươi tắn và có sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên.

Trái ngược với bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ, bức tranh sông nước đêm trăng lại mang màu sắc đượm buồn:

“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Ở bức tranh này, tác giả đã khắc họa hình ảnh thiên nhiên nhuốm màu sắc chia ly. Trong thực tế, “gió và mây” vốn quấn quýt, gắn bó. Nhưng khi đi vào thơ của Hàn Mặc Tử lại gợi sự chia lìa đôi ngả. Còn dòng sông lại “buồn thiu”, dòng sông được nhân hóa như đang nhuốm màu tâm trạng buồn bã, thê lương. Và cuộc đời của con người cũng giống như “hoa bắp lay”. Bông hoa nhỏ bé bị dòng nước cuốn trôi, vùi dập. Hình ảnh thiên nhiên đêm trăng đượm buồn và mờ ảo, hư không.

Khổ thơ cuối cùng là nỗi niềm tâm trạng của Hàn Mặc Tử:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Khung cảnh cũng vận động từ thực đến ảo, từ vườn thôn Vĩ đến sông trăng và cuối cùng chìm vào tâm thức mờ ảo của sương khói. Đông từ “mơ” chỉ trạng thái vô thức của con người, cho thấy rằng nhà thơ đang đắm chìm trong cõi mộng. Cùng với điệp ngữ “khách đường xa” nhằm nhấn mạnh khoảng cách xa rời, chỉ là khách trong mơ. Tiếp đến là hình ảnh “áo em trắng quá nhìn không ra” đã diễn tả sự choáng ngợp, thảng thốt; “nhìn không ra” cực tả sắc trắng, trắng một cách kì lạ, bất ngờ. Đây không còn là màu sắc thực nữa mà là màu sắc hiện lên trong tâm tưởng của nhà thơ. Đến câu thơ tiếp theo “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh” lại gợi cho ta hai cách hiểu. Hình ảnh thực đã gợi ra khung cảnh xứ Huế nắng nhiều, mưa nhiều nên nhiều sương khói và sương khói làm tăng thêm vẻ hư ảo, mộng mơ của xứ Huế. Đồng thời đó còn là hình ảnh biểu tượng gợi làn sương khói làm mờ ảo cả bóng người hay chính là tượng trưng cho một mối tình mong manh, xa vời, không trọn vẹn. Đặc biệt là câu hỏi tu từ kết lại bài thơ “Ai biết tình ai có đậm đà?” là lời nhân vật trữ tình vừa là để hỏi người và vừa để hỏi mình, vừa gần gũi vừa xa xăm, vừa hoài nghi vừa như giận hờn, trách móc. Ở đây, Hàn Mặc Tử đã sử dụng đại từ phiếm chỉ “ai” làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng của một tâm hồn khát khao được sống, được yêu. Đồng thời làm nhòe mờ hình tượng của khách thể và chủ thể trữ tình, tạo nên một nỗi ám ảnh về nỗi đau trong cõi mênh mông vô tận, tâm trạng hụt hẫng và đầy tuyệt vọng của nhà thơ.

Như vậy, “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Từ đã khắc họa đẹp về cảnh và người xứ Huế qua đó cho thấy được tình yêu thiết tha, đằm thắm của tác giả đối với quê hương đất nước, với con người xứ Huế đoan trang, dịu dàng. Đồng thời, tác phẩm còn thể hiện tiếng lòng riêng tư của Hàn Mặc Tử – một con người tài hoa bạc mệnh. Dù tác giả đang phải đối mặt với cái chết cận kề nhưng vẫn khao khát sự sống. Chính vì vậy mà tác phẩm lại có được sự cộng hưởng rộng rãi và lâu bền trong tâm hồn thế hệ bạn đọc.

Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 2

Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Hàn Mặc Tử. Bài thơ không chỉ khắc họa bức tranh thiên nhiên đẹp về một miền quê đất nước, mà còn là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người.

Hàn Mặc Từ đã khắc họa hai bức tranh thiên nhiên đối lập nhau. Đó là bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ và bức tranh sông nước đêm trăng. Đến với khổ thơ đầu tiên, người đọc sẽ cảm nhận được vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ:

Bài thơ bắt đầu bằng một câu hỏi tu từ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Ở đây, người đọc có thể hiểu theo hai cách. Đó có thể là lời thăm hỏi của cô gái thôn Vĩ khi nhà thơ đang mắc bệnh hiểm nghèo. Nhưng cũng có thể là lời của chính tác giả, Hàn Mặc Tử đang tự phân thân để hỏi chính mình. Nhà thơ lúc này dù khao khát, nhớ nhung quê hương nhưng không thể trở về. Nhưng cả hai cách hiểu đều cho chúng ta thấy được nỗi nhớ quê cũng như mong muốn được về thôn Vĩ của nhà thơ. Sau đó, bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ bắt đầu được nhà thơ khắc họa với những nét đẹp: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Cụm từ “nắng hàng cau” gợi ra một thực tế. Cau vốn là loại cây thân thẳng, cao lớn nhất trong khu vườn nên đã đón được ánh nắng đầu tiên của một ngày. Còn “nắng mới” cho thấy đây thứ ánh nắng mới bắt đầu của một ngày. Nó gợi sự ấm áp, tươi vui. Nhà thơ đã kết hợp sử dụng biện pháp tu từ điệp ngữ “nhìn nắng hàng cau” và “nắng mới” cho thấy lúc này, khắp không gian đều đang ngập tràn ánh nắng của buổi sớm mai. Thiên nhiên không chỉ có màu vàng của nắng. Mà còn có màu xanh của vườn cây: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Khu vườn này không rõ là của “ai”. Chỉ biết nó được chăm sóc rất cẩn thận. Khắp nơi đều tràn ngập màu xanh của cây cối. Cách so sánh “xanh như ngọc” gợi một màu xanh trong sáng, ẩn chứa ánh sáng của sự sống. Từ “quá” bộc lộ sự trầm trồ, khen ngợi của nhà thơ dành cho khu vườn. Giữa thiên nhiên đó không thể thiếu được dáng vẻ của con người: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. “Mặt chữ điền” gợi ra vẻ hiền lành phúc hậu của người thôn Vĩ. Hàn Mặc Tử như nhìn thấy khuôn mặt ai thấp thoáng sau lá trúc. Phải chăng đó là khuôn mặt của người con gái Hàn Mặc Tử thầm thương?

Kết lại bức tranh thôn Vĩ đầy sức sống, Hàn Mặc Tử đưa người đọc đến với bức tranh thiên nhiên sông nước đượm buồn:

“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Cảnh vật trong bức tranh này đều nhuốm màu buồn bã, chia lìa. Với một tâm hồn tràn đầy mặc cảm, Hàn Mặc Tử đã vẽ nên một bức tranh đẹp đấy nhưng cũng buồn đấy. Theo quy luật thông thường của thiên nhiên, “gió và mây” luôn là hai hình ảnh sóng đôi “gió thổi, mây bay”. Nhưng ở trong thơ Hàn, gió và mây lại chia lìa đôi ngả. Gió theo lối gió, mây theo đường mây. Không có bất kì mối liên hệ nào. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, con sông cũng nhuốm màu bi thương “dòng nước buồn thiu”. Với tính từ “buồn thiu” kết hợp biện pháp nhân hóa, làm cho dòng sông cũng trở nên buồn bã, không buồn vận động. Bức tranh sông nước đêm trăng không thể thiếu được hình ảnh ánh trăng. Trong mặc cảm chia lìa, ánh trăng hiện lên trong nỗi lo âu, khắc khoải “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Câu hỏi toát lên niềm hy vọng đầy khắc khoải. Đó là khát khao, là ước vọng được giao duyên, được hội ngộ của nhà thơ gửi gắm qua từ“kịp”.

Những câu thơ cuối cùng là dòng tâm trạng được khắc họa nổi bật qua không gian vừa thực vừa ảo. Câu thơ “Mơ khách đường xa, khách đường xa” với từ “mơ” đã gợi ra trạng thái vô thức của con người, nhà thơ đang đắm chìm trong cõi mộng. Kết hợp với điệp ngữ “khách đường xa” nhằm nhấn mạnh khoảng cách xa rời, chỉ là khách trong mơ. Để rồi “Áo em trắng quá nhìn không ra”, ở đây với từ “quá” diễn tả sự choáng ngợp, thảng thốt; “nhìn không ra” cực tả sắc trắng, trắng một cách kì lạ, bất ngờ. Đây không còn là màu sắc thực nữa mà là màu trong tâm tưởng. Câu thơ tiếp theo “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh” gợi cho ta cách hiểu làn sương khói làm mờ ảo cả bóng người hay chính là tượng trưng cho một mối tình mong manh, xa vời, không trọn vẹn. Bài thơ được kết lại bằng một câu hỏi “Ai biết tình ai có đậm đà?. Đó là lời nhân vật trữ tình vừa là để hỏi người và vừa để hỏi mình, vừa gần gũi vừa xa xăm, vừa hoài nghi vừa như giận hờn, trách móc.

Từ việc khắc họa bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ được chuyển biến về không gian, thời gian để từ đó bộc lộ tâm trạng của nhân vật trữ tình. “Đây thôn Vĩ Dạ” quả là một trong những tác phẩm độc đáo của Hàn Mặc Tử.

Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 3

Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ nổi tiếng của nền thơ ca Việt Nam. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ. Bài thơ đã để lại cho người đọc sâu sắc về một hồn thơ thật độc đáo.

Đến với khổ thơ đầu tiên, người đọc sẽ cảm nhận được một bức tranh thiên nhiên nơi thôn Vĩ tuyệt đẹp:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Bài thơ được bắt đầu bằng một câu hỏi: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Câu hỏi gợi cho người đọc hai cách hiểu. Đó có thể là lời hỏi của người thôn Vĩ dành cho tác giả. Vì theo như lời được kể lại thì nguồn cảm hứng để Hàn Mặc Tử sáng tác bài thơ bắt nguồn từ lời thăm hỏi của cô gái thôn Vĩ khi nhà thơ đang mắc bệnh hiểm nghèo. Cô đã gửi một tấm bưu thiếp là bức tranh nơi thôn Vĩ cùng với lời nhắn gửi sao anh không về thăm lại thôn Vĩ. Đó cũng có thể là lời của chính tác giả, Hàn Mặc Tử đang tự phân thân để hỏi chính mình. Nhà thơ lúc này tuy khao khát, nhớ nhung quê hương nhưng không thể trở về. Dù hiểu theo cách nào thì chúng ta cũng thấy được nỗi nhớ quê cũng như mong muốn được về thôn Vĩ của nhà thơ.

Những câu thơ tiếp theo đã khắc họa hình ảnh thiên nhiên thôn Vĩ Dạ. Hình ảnh đầu tiên hiện ra: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Ánh nắng của buổi bình minh đã bao trùm khắp làng quê. Cách sử dụng điệp ngữ “nhìn nắng” – “nắng mới” thể hiện một không gian tràn đầy sức sống. Thứ ánh sáng của ngày mới đầy tinh khôi, ấm áp mang đến cho con người một luồng sinh khí mới. Tiếp đến câu thơ thứ ba lại là một câu hỏi tu từ: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. “Ai” là đại từ phiếm chỉ, nhà thơ không biết khu vườn kia là của ai. Từ “mướt” gợi cảm giác về một màu xanh của sự sống, lấp lánh khắp khu vườn. Cách so sánh “xanh như ngọc” khiến ta liên tưởng đến câu thơ của Xuân Diệu:

“Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền”

(Thơ duyên)

Cuối cùng, nhà thơ khắc họa vẻ đẹp của con người xứ Huế trong câu thơ: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Trong không gian thiên nhiên đó, con người chỉ thoáng xuất hiện. Hình ảnh trên lại gợi cho người đọc hai cách hiểu. Khuôn mặt chữ điền của người thôn Vĩ thấp thoáng sau tán trúc. Khuôn mặt chữ điền gợi ra vẻ hiền lành phúc hậu, phải chăng đó là khuôn mặt của người con gái Hàn Mặc Tử thầm thương? Hay cũng có thể đó là khung cửa sổ hình chữ điền thấp thoáng sau lá trúc. Dù là cách hiểu nào thì Hàn Mặc Tử cũng đều muốn thể hiện vẻ đẹp của con người xứ Huế cũng như tình cảm dành cho con người, cảnh vật nơi đây.

Đối lập với bức tranh thiên nhiên đầy tươi sáng nơi thôn Vĩ, là bức tranh sông nước đêm trăng:

“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”

Hai câu thơ mở đầu của khổ thơ thứ hai, tuy là tả cảnh nhưng khi đọc lên lại thấy nhuốm màu tâm trạng. Hình ảnh thiên nhiên gợi ra sự chia ly “gió theo lối gió, mây đường mây”. Nếu trong tự nhiên, gió và mây vốn là những sự vật luôn quấn quýt, gắn bó với nhau thì ở đây Hàn Mặc Tử lại để “mây và gió” chia cách đôi ngả. Ta tự hỏi đó là sự chia ly của thiên nhiên hay của chính con người? Và đến cả dòng nước – một sự vật vô tri, vô giác nhưng qua cái nhìn của nhà thơ giờ đây cũng có cảm xúc. Dòng nước “buồn thiu” – biện pháp tu từ nhân hóa khiến con sông giống như một con người, có tâm trạng. Cuối cùng là hình ảnh “hoa bắp lay” – bông hoa bắp nhỏ bé trôi theo dòng nước cũng giống như cuộc đời lưu lạc trôi nổi của con người.

Và bức tranh sông nước trong đêm trăng thì sao có thể thiếu mất đi ánh trăng:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

“Trăng” đã trở thành một biểu tượng quen thuộc của thi ca. Đặc biệt trong thơ Hàn Mặc Tử thì ánh trăng xuất hiện rất nhiều. Trăng có lúc được ẩn dụ, lúc được nhân hóa làm cho nó mang một phong cách độc đáo và khác lạ, kiểu như:

“Trăng nằm sóng soài trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi”

(Bẽn lẽn)

Hay ánh trăng có lúc trở nên thật điên cuồng:

“Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra”

(Say trăng)

Còn ở “Đây thôn Vĩ Dạ” lại là “sông trăng” – gợi ra hình ảnh ánh trăng vàng in bóng xuống mặt nước. Ánh trăng lan tỏa ra khắp dòng sông tạo nên một dòng sông trăng. Kết thúc khổ thơ là câu hỏi tu từ “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Từ “kịp” được tác giả sử dụng nhằm thể hiện tâm trạng lo âu. Bởi với một người bình thường, nếu không kịp trở về vào “tối nay” thì sẽ còn những đêm khác, Còn với Hàn Mặc Tử, thì đêm nào cũng có thể là đêm cuối cùng.

Khổ thơ cuối là dòng tâm trạng của nhân vật trữ tình:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Giữa không gian mơ hồ giữa “ảo và mộng” của “cảnh và người”. Khung cảnh vận động từ thực đến ảo, từ khu vườn thôn Vĩ Dạ đến sông trăng và cuối cùng chìm vào tâm thức mờ ảo của sương khói. Điệp ngữ “khách đường xa” như một tiếng gọi tha thiết, Hàn Mặc Tử nhớ về quê hương để rồi phải mặc cảm trong sự chia cách. Câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” là lời nhân vật trữ tình vừa là để hỏi người và vừa để hỏi mình, nửa gần gũi nửa xa xăm, nửa hoài nghi nửa như giận hờn, trách móc. Khi dùng đại từ phiếm chỉ “ai” làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng của một tâm hồn khát khao được sống, được yêu. Câu thơ làm nhòe mờ hình tượng của khách thể và chủ thể trữ tình, tạo nên một nỗi ám ảnh về nỗi đau trong cõi mênh mông vô tận, tâm trạng hụt hẫng và đầy tuyệt vọng của nhà thơ.

Qua phân tích trên, người đọc có thể cảm nhận được một hồn thơ mãnh liệt, luôn khát khao giao cảm với cuộc đời của Hàn Mặc Tử. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” khơi gợi được những cảm xúc trong sáng mà đầy sâu sắc.

Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 4

Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chói lọi diệu kỳ trong vòm trời rực rỡ lấp lánh nhiều tinh tú lạ. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông phải kể đến bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.

Bài thơ có lẽ là lời trách thầm, và cũng là lời nhắn nhủ nhẹ nhàng gửi gắm của nhân vật trữ tình, trong một tâm trạng vời vợi nhớ mong:

“Sao anh không về chơi thôn Vi?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền?”

Nếu như mỗi tình yêu đều gắn với một không gian và thời gian cụ thể, thì mỗi hình ảnh của nhân vật trữ tình trong bài thơ này gắn với vườn tược và con người Vĩ Dạ, đều những kỉ niệm thật khó quên. Có dịp, xin mời bạn hãy về thăm thôn Vĩ vào một buổi sớm mai Vĩ Dạ nằm ngay bên bờ sông Hương êm đềm thơ mộng, chỉ cách trung tâm cố đô Huế khoảng không đầy một giờ tản bộ. Từ xưa, thôn Vĩ Dạ đã nổi tiếng bởi cây cối xanh tươi, và những biệt thự nhỏ nhắn duyên dáng, thấp thoáng, tưới màu xanh của cây lá. Thôn Vĩ Dạ cũng nổi tiếng như sông Hương, núi Ngự, chùa Thiên Mụ… của xứ này. Bởi vậy, ta không lấy làm ngạc nhiên khi thấy nhiều nghệ sĩ tên tuổi như Nguyễn Bính, Bích Khuê, Nguyễn Tuân… đều có những cảm giác mà cảm hứng được nảy sinh từ thôn Vĩ Dạ nên thơ.

Sớm mai, nắng mới long lanh trên những tàu cau còn ướt sương đêm. Khách từ xa tới sẽ thấy hàng cau trước nhất, vì nó thường cao hơn hẳn những cây cối xum xuê ở dưới. Đất đai Vĩ Dạ phì nhiêu, được con người cần cù chăm bón; quả thật, cây cối ở đây xanh tốt mơn mởn và sạch sẽ như được lau chùi, mài giũa thành như những cành vàng lá ngọc…

Thật là một sáng tạo độc đáo. “Mặt chữ điền” gợi cho người đọc nhớ tới hình ảnh người dân có khuôn mặt vuông vức, thân hình cường tráng, đầy nam tính. Nhưng, khi hình tượng này đặt trong chính thể đoạn thơ và câu thơ: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” thì ấn tượng nổi bật lại là sự hài hòa, gắn bó mật thiết giữa con người với vườn tược quê hương. Như vậy, câu thơ còn khắc họa thành công một nét đáng nhớ; đáng yêu của thôn Vĩ: Cảnh đẹp đẽ, tốt tươi; con người đôn hậu giàu sức sống.

Tiếp nối mạch cảm xúc của khổ đầu, dường như khổ thứ hai, nhà thơ miêu tả cảnh thiên nhiên sông nước đêm trăng:

“Gió theo lối gió mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu hoa bắp bay;
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Nhịp điệu dịu dàng, khoan thai của xứ Huế được khắc họa thành công: Gió và mây nhè nhẹ trôi đi; sông Hương nước chảy lặng lờ. Hoa ngô (hoa bắp) chi khẽ đung đưa theo chiều gió. Khác với khố một, đến khổ thứ hai này, không gian được miêu tả như trong mộng ảo, tràn ngập ánh trăng. Nhà thơ không những chỉ ta, không những chỉ nhìn bằng mắt mà điều quan trọng hơn là còn “nhìn” bằng thế giới tâm linh của mình: Do đó, không có biên giới giữa thực và mộng và dường như càng về cuối thế giới tâm linh, thế giới mộng ảo càng lấn át thế giới hiện thực. Vì là mộng ảo, nên có nỗi băn khoăn rất mộng mơ: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/Có chở trăng về kịp tối nay?”. Thuyền trăng thì có nhiều thi nhân nhắc đến. nhưng “sông Trăng” thì có lẽ Hàn Mặc Tử là người sáng tạo đầu tiên. Dường như trong những câu thơ trên, có sự mong chờ, niềm hy vọng, lẫn nỗi buồn man mác của nhà thơ, ở đây rõ ràng, không có sự đặc sắc của một bút pháp phác họa đúng linh hồn của một xứ sở, mà điều quan trọng nữa là: Những nét phác họa ấy gợi lên ở người đọc một tình yêu thật dịu dàng, kín đáo, mà sâu xa rộng mở đến khôn cùng. Ấn tượng của người đọc về những điều nói trên sẽ được nhà thơ tô đậm qua khổ kết:

Xem thêm :  Mách bạn 4 cách tải phim về máy tính đơn giản nhanh chóng

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Đúng là xứ Huế vốn mưa nhiều, lắm sương khói. Do đó, phải chăng khổ thơ trên có nét tả thực, cũng giống như “hàng cau”, “lá trúc” “hoa bắp”… ở những khổ thơ trước? Sương khói trắng, và áo em cũng trắng: Bởi vậy, nếu nhà thơ chỉ nhìn thấy bóng người thôi (nhân ảnh), thì cũng là điều dễ hiểu. Tuy vậy, như đã nêu, Hàn Mặc Tử vốn là nhà thơ lãng mạn đích thực, cái chính là thi sĩ đã nói bằng tâm tưởng, gieo vào lòng người đọc một thoáng bâng khuâng: Người thiếu nữ Huế tươi đẹp quá, kín đáo và huyền ảo quá; nào ai có biết tình yêu của họ bền chặt, hay cũng chỉ mờ ảo như khói sương xứ Huế? Ở đây, dường như tác giả cảm thấy mình chơi vơi hụt hẫng, trước một mối tình đơn phương lung linh, huyền ảo. Nếu nhận ra rằng. Hàn Mặc Tử vốn là người rất mực tài hoa, luôn khao khát yêu thương; nhưng căn bệnh phong hiểm nghèo đã làm ông không có được một tình yêu trọn vẹn. Nhà thơ đã từng phải sống có độc, lúc thì trong một con thuyền nhỏ lênh đênh chẳng có bến bờ, lúc thì khắc khoải bên dãy núi ven thành phố, và cuối cùng phải nằm vô vọng ở nhà thương Tuy Hòa chờ cái chết… Ta càng thông cảm cho một thoáng hờn dỗi, trách móc tưởng như vô cớ của cây bút đa tài, mà bất hạnh này. Phải yêu người Vĩ Dạ, nói rộng ra là phải yêu người xứ Huế; hiểu xứ Huế, gắn bó với xứ Huế sâu sắc đến độ nào, thì thi sĩ mới nói về tình yêu, về xứ Huế đứng và hay như thế.

Như vậy, bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” đã để lại cho người đọc một ấn tượng sâu sắc về thiên nhiên của nơi thôn Vĩ. Cũng như nỗi niềm tâm trạng của nhà thơ Hàn Mặc Tử được gửi gắm trong bài thơ.

Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 5

Đến với “Đây thôn Vĩ Dạ” của nhà thơ Hàn Mặc Tử có lẽ người đọc sẽ cảm thấy ấn tượng với bức tranh thiên nhiên tràn đầy sức sống nơi thôn Vĩ. Điều đó được thể hiện qua khổ thơ đầu của bài thơ:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Câu thơ mở đầu là một câu hỏi mang nhiều ý nghĩa. Đây có thể là lời hỏi của người thôn Vĩ dành cho tác giả. Vì theo như lời được kể lại thì nguồn cảm hứng để Hàn Mặc Tử sáng tác bài thơ bắt nguồn từ lời thăm hỏi của cô gái thôn Vĩ khi nhà thơ đang mắc bệnh hiểm nghèo. Cô đã gửi một tấm bưu thiếp là bức tranh nơi thôn Vĩ cùng với lời nhắn gửi sao anh không về thăm lại thôn Vĩ. Cũng có thể là lời của chính tác giả, Hàn Mặc Tử đang tự phân thân để hỏi chính mình. Nhà thơ lúc này dù khao khát, nhớ nhung quê hương nhưng không thể trở về. Dù hiểu theo cách nào thì chúng ta cũng thấy được nỗi nhớ quê cũng như mong muốn được về thôn Vĩ của nhà thơ.

Đến câu thơ thứ hai, bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ bắt đầu được nhà thơ khắc họa với những nét đẹp: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Đây là ánh nắng của buổi bình minh bao trùm khắp không gian làng quê. Cách sử dụng điệp ngữ “nhìn nắng” – “nắng mới” thể hiện một không gian tràn đầy sức sống. Thứ ánh sáng của ngày mới đầy tinh khôi, ấm áp mang đến cho con người một luồng sinh khí mới. Còn hình ảnh “hàng cau” lấp lánh trong nắng. Cau là loại cây thân thẳng, cao lớn nhất trong khu vườn nên đã đón được ánh nắng đầu tiên của một ngày.

Câu thơ thứ ba gợi ra một không gian ngập tràn màu xanh: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Khu vườn này không rõ là của “ai”. Chỉ biết nó được chăm sóc rất cẩn thận. Khắp nơi đều tràn ngập màu xanh của cây cối. “Xanh như ngọc” gợi một màu xanh trong sáng, ẩn chứa ánh sáng của sự sống. Từ “quá” bộc lộ sự trầm trồ, khen ngợi của nhà thơ dành cho khu vườn.

Và bức tranh thiên nhiên kết lại bằng hình ảnh con người thoáng xuất hiện: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. “Mặt chữ điền” gợi ra vẻ hiền lành phúc hậu. Hàn Mặc Tử như nhìn thấy khuôn mặt ai thấp thoáng sau lá trúc. Phải chăng đó là khuôn mặt của người con gái Hàn Mặc Tử thầm thương? Qua đây, nhà thơ muốn khắc họa vẻ đẹp của con người xứ Huế cũng như tình cảm dành cho con người, cảnh vật nơi đây.

Tiếp đến, ở khổ thơ thứ hai là bức tranh sông nước đêm trăng gợi ra sự chia ly:

“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Nếu ở khổ thơ đầu, thiên nhiên hiện lên tràn đầy sức sống với những gam màu tươi tắn. Thì ở khổ này, cảnh vật lại nhuốm màu buồn bã. Nguyễn Du đã từng viết: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Quả vật, với con mắt tràn đầy đau đớn và mặc cảm, Hàn Mặc Tử đã khắc họa một bức tranh thiên nhiên đẹp đấy nhưng buồn đấy. Nếu như ở khổ thơ thứ nhất, bức tranh thiên nhiên được miêu tả với những gam màu tươi tắn của buổi sớm mai thì ở khổ thơ này, dòng thời gian đã vận động, chuyển mình qua khung cảnh gió mây, trăng nước. Theo quy luật thông thường của thiên nhiên, gió và mây luôn là hai hình ảnh sóng đôi “gió thổi, mây bay”, nhưng qua những câu thơ của chàng thi sĩ họ Hàn, gió – mây lại hiện lên trong mối quan hệ đối lập của sự chia lìa, xa cách, trôi nổi và tượng trưng cho nỗi trống vắng, cô đơn trong tâm trạng của nhân vật trữ tình. Không chỉ dừng lại ở đó, khung cảnh còn được bao phủ bởi bức màn của nỗi buồn qua những hình ảnh giàu sức gợi như “dòng nước buồn thiu”. Với tính từ “buồn thiu” kết hợp biện pháp nhân hóa, dường như nỗi buồn mang sắc thái chia phôi của gió và mây đã thấm vào sông nước, khiến dòng thủy lưu mang nặng nỗi buồn của thiên nhiên tạo vật. Và trong khung cảnh đó, ánh trăng xuất hiện và bao trùm không gian, làm nên một liên tưởng độc đáo về sông trăng, thuyền trăng. Trong mặc cảm chia lìa, ánh trăng hiện lên trong nỗi lo âu, khắc khoải “Có chở trăng về kịp tối nay?” đã làm nổi bật hơn nữa nỗi bồn chồn cùng tâm trạng xót xa, đau đớn cùng nỗi ám ảnh về khát khao giao cảm với đời của nhân vật trữ tình.

Những câu thơ cuối cùng là dòng tâm trạng được khắc họa nổi bật qua không gian vừa thực vừa ảo. Khung cảnh thiên nhiên với vườn thôn Vĩ, nắng sớm mai, hàng cau, lá trúc, gió mây, dòng nước, thuyền trăng, sông trăng biến mất và nhường chỗ cho hình bóng “khách đường xa” trong ảo mộng. “Áo em trắng quá” phải chăng là ẩn dụ cho bóng dáng của người con gái từng xuất hiện trong thi ảnh “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Khung cảnh cũng vận động từ thực đến ảo, từ vườn thôn Vĩ đến sông trăng và cuối cùng chìm vào tâm thức mờ ảo của sương khói “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”. Dường như “sương khói” là tác nhân làm mờ đi, nhòa đi bóng dáng con người và tình người. Thi nhân đã cố gắng níu kéo trong khát khao giao cảm với hồn người, tình người nhưng tất cả chỉ là sương khói mờ ảo. Bài thơ được kết thúc bởi câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” xoáy sâu hơn nữa bi kịch của nhân vật trữ tình. Đại từ phiếm chỉ “Ai” được điệp lại hai lần khiến câu thơ ngân dài và vang xa, làm nhòe mờ hình tượng của khách thể và chủ thể trữ tình, tạo nên một nỗi ám ảnh về nỗi đau trong cõi mênh mông tận cùng. Đó là nỗi tuyệt vọng của một tâm hồn khát khao giao cảm với đời nhưng mãi mãi không được cộng hưởng và hồi đáp.

Tóm lại, “Đây thôn Vĩ Dạ” đã gợi cho người đọc cảm nhận về một hồn thơ độc đáo của Hàn Mặc Tử. Đúng như nhà thơ Chế Lan Viên đã từng khẳng định: “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”.

Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 6

Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã từng nhận xét về nhà thơ Hàn Mặc Tử: “Vườn thơ Hàn rộng không bờ bến nhưng càng đi xa càng thấy lạnh”. Khi đọc bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, người đọc đã cảm nhận rõ hơn về những nhận định trên.

Mở đầu bài thơ là câu hỏi tu từ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” mang nhiều ý nghĩa. Đó có thể là một lời trách móc nhẹ nhàng tại sao đã lâu rồi mà anh không về chơi vườn thôn Vĩ, cũng có thể là lời tự vấn của chính tác giả nhằm bộc lộ khao khát được trở về thôn Vĩ. Từ đó, nhà thơ bắt đầu miêu tả bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ. Đầu tiên là hình ảnh ánh nắng buổi bình minh đang len lỏi trên cành cây kẽ lá, quyện hòa làm nên thi ảnh độc đáo “nắng hàng cau”. Chiều không gian thay đổi với vẻ đẹp của khu vườn thôn Vĩ trong gam màu “mướt quá xanh như ngọc” gợi lên sự xanh non, tươi mới và trong trẻo. Và trong những gam màu tươi sáng đó, hình ảnh con người xuất hiện trong mối quan hệ giao hòa: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Câu thơ gợi ra hình ảnh con người thấp thoáng cùng sự bí ẩn, gợi ra nhiều cách giải mã trong lòng độc giả. Đó phải chăng là khuôn mặt của người thiếu nữ ẩn hiện sau khóm trúc, lá trúc cắt ngang tạo nên khuôn mặt chữ điền? Hay là khuôn mặt tượng trưng cho vẻ đẹp phúc hậu của con người xứ Huế? Với tài năng trong việc sử dụng ngôn từ, tác giả Hàn Mặc Tử đã kiến tạo nên những hình ảnh, thi liệu đa nghĩa và giàu sắc thái biểu đạt để phác họa bức tranh về thiên nhiên, cảnh vật và con người xứ Huế.

Tiếp đến khổ thơ thứ hai, tác giả lại gợi lên không gian của sự chia lìa, xa cách đượm buồn hiu hắt và lung linh, huyền ảo:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Nếu ở khổ thơ thứ nhất, bức tranh thiên nhiên được miêu tả với những gam màu tươi tắn của buổi sớm mai thì ở khổ thơ này, dòng thời gian đã vận động, chuyển mình qua khung cảnh gió mây, trăng nước. Theo như quy luật thông thường, gió và mây luôn là hai hình ảnh sóng đôi “gió thổi, mây bay”. Nhưng ở đây hình ảnh “gió – mây” lại hiện lên trong mối quan hệ đối lập của sự chia lìa, xa cách. Không chỉ dừng lại ở đó, khung cảnh còn được bao phủ bởi bức màn của nỗi buồn qua những hình ảnh giàu sức gợi như “dòng nước buồn thiu”. Với tính từ “buồn thiu” kết hợp biện pháp nhân hóa, dường như nỗi buồn mang sắc thái chia phôi của gió và mây đã thấm vào sông nước, khiến dòng thủy lưu mang nặng nỗi buồn của thiên nhiên tạo vật. Và trong khung cảnh đó, ánh trăng xuất hiện và bao trùm không gian, làm nên một liên tưởng độc đáo về sông trăng, thuyền trăng. Trong mặc cảm chia lìa, ánh trăng hiện lên trong nỗi lo âu, khắc khoải “Có chở trăng về kịp tối nay?” đã làm nổi bật hơn nữa nỗi bồn chồn cùng tâm trạng xót xa, đau đớn cùng nỗi ám ảnh về khát khao giao cảm với đời của nhân vật trữ tình.

Dòng tâm trạng của nhân vật trữ tình tiếp tục được làm nổi bật qua không gian vừa thực vừa ảo mộng:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Khung cảnh thiên nhiên đã nhường chỗ cho hình bóng “khách đường xa” trong ảo mộng. Cụm từ “áo em trắng quá” phải chăng là ẩn dụ cho bóng dáng của người con gái từng xuất hiện trong thi ảnh “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Khung cảnh cũng vận động từ thực đến ảo, từ vườn thôn Vĩ đến sông trăng và cuối cùng chìm vào tâm thức mờ ảo của sương khói “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”. Dường như “sương khói” là tác nhân làm mờ đi, nhòa đi bóng dáng con người và tình người. Thi nhân đã cố gắng níu kéo trong khát khao giao cảm với hồn người, tình người nhưng tất cả chỉ là sương khói mờ ảo. Bài thơ được kết thúc bởi câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” xoáy sâu hơn nữa bi kịch của nhân vật trữ tình. Đại từ phiếm chỉ “ai” được điệp lại hai lần khiến câu thơ ngân dài và vang xa, làm nhòe mờ hình tượng của khách thể và chủ thể trữ tình, tạo nên một nỗi ám ảnh về nỗi đau trong cõi mênh mông tận cùng.

“Đây thôn Vĩ Dạ” đã cho người đọc cảm nhận về một bức tranh thiên nhiên với tâm hồn của một người thi sĩ khát khao giao cảm với tình đời, tình người trong nỗi ám ảnh, khắc khoải và xót xa.

Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 7

Hàn Mặc Từ là một nhà thơ tiêu biểu trong phong trào thơ mới. Thơ của ông nổi bật với những đường nét và màu sắc riêng khi thì táo bạo ấn tượng, khi thì thanh trong thoát tục. Đặc biệt là bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” đã để lại nhiều tình cảm trong trẻo trong lòng người đọc.

Bài thơ bắt đầu với câu hỏi tu từ:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Khi làm bài thơ này, Hàn Mạc Tử đang ở trại phong Tuy Hòa và nhận được bức ảnh của Hoàng Cúc về miền quê xứ Huế. Ông theo đó mà miêu tả những đường nét của xứ Huế qua trí nhớ mà bức ảnh gợi lại. Câu hỏi tu từ đã bộc lộ khao khát của nhà thơ mong muốn được trở về thôn Vĩ. Từ đó, bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ Dạ hiện lên với vẻ đẹp:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Trong tưởng tượng của người đọc, bức tranh tươi đẹp về thiên nhiên, con người xứ Huế được hiện lên nên thơ, yên bình. Màu sắc nổi bật là màu nắng tươi mới trên bầu trời cao xanh. Cùng với đó là từ “mướt” trong câu thơ gợi cho người đọc cảm giác xanh tươi lạ thường, có liên tưởng mảnh vườn nhỏ y như một viên ngọc thanh thoát mà đồng nội giữa cảnh sắc xứ Huế. Đặc biệt, hình ảnh con người xứ Huế hiện lên hiền lành, đôn hậu với “khuôn mặt chữ điền” ấn lấp sau lá trúc, một biểu tượng cho sự thanh tao của người quân tử. Có thể đó là khuôn mặt dễ mến, đôn hậu của con người xứ Huế trong tâm thức nhà thơ cũng có thể là hình ảnh người con gái Huế thân thương dịu dàng.

Đến khổ thơ thứ hai, nhà thơ lại khắc họa bức tranh thiên nhiên sông nước đêm trăng:

“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…”

“Gió” và “mây” vốn là hai hiện tượng thân thiết nhưng ở câu thơ của Hàn Mạc Tử thì lại mỗi thứ một đường, tạo một sự chia xa khó tả. Không chỉ có vậy, sự êm đềm của dòng sông xứ Huế lại tạt vào lòng người cảm giác “buồn thiu”, những cánh hoa bắp “lay” cũng gợi sự mỏng manh yếu ớt khiến cho cả không gian nhuốm màu thê lương, buồn bã. Trong khung cảnh thiên nhiên đó, câu hỏi cất lên:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Câu hỏi nhẹ nhàng nhưng nặng trĩu sự lo lắng, sự thấp thỏm, không biết liệu rằng có còn kịp hay không? Kịp để nhìn thấy sự tươi đẹp của cuộc đời, của con người, có kịp làm điều mong ước, tất cả đều là sự khát khao giao cảm đến tột cùng khi con người ta phải xa với đời trong chốn cô đơn và ngày ngày chờ đến lời phán quyết cuối cùng của cuộc đời mình.

Ở đoạn thơ thứ ba, khát khoa này càng bộc lộ rõ hơn bao giờ hết:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Điệp từ “khách đường xa” được lập lại như thể nhấn mạnh sự ước ao, sự lưu ý bao nhiêu ngày tháng. Màu trắng là màu sắc rất hay xuất hiện trong thơ của Hàn Mạc Tử, luôn là biểu hiện của sự tinh khôi thanh khiết, giống y như nàng trinh nữ, lúc nào cũng trắng trong tuyệt vời. Nhưng có lẽ do màu trắng tinh khôi của áo mà trong giấc mơ của mình, Hàn Mạc Tử đã không thể nhìn rõ cô gái, bởi sương khói mông lung đã làm mờ nhạt cả trí nhớ, chỉ còn lại sự thanh khiết không gì nhạt phai. Kết thúc bài thơ, một câu hỏi tu từ lại được thốt lên hết sức thiết tha: “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Câu hỏi tu từ với đại từ phiếm chỉ “ai” như bộc lộ một niềm khao khát được sống, được yêu thương.

“Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong số ít những bài thơ không mang những nét u buồn thất vọng về cuộc đời nhưng cũng không hẳn là mang âm hưởng vui tươi. Tuy nhiên người đọc vẫn nhận ra những tình cảm hết sức sâu sắc, yêu đời, yêu đời và khát khao giao.

Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 8

Hàn Mặc Từ là một trong những nhà thơ nổi tiếng thuộc trường phái thơ điên. Các tác phẩm của ông đều mang đậm phong cách sáng tác độc đáo. Một trong những bài thơ nổi tiếng phải kể đến “Đây thôn Vĩ Dạ”.

Ở khổ thơ thứ nhất, Hàn Mặc Tử đã khắc họa bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ đầy tươi sáng:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Câu hỏi tu từ mở đầu bài thơ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” đã gợi cho người đọc hai cách hiểu. Cách hiểu đầu tiên đây có thể là lời hỏi của người thôn Vĩ dành cho tác giả. Vì theo như lời được kể lại thì nguồn cảm hứng để Hàn Mặc Tử sáng tác bài thơ bắt nguồn từ lời thăm hỏi của cô gái thôn Vĩ khi nhà thơ đang mắc bệnh hiểm nghèo. Cô đã gửi một tấm bưu thiếp là bức tranh nơi thôn Vĩ cùng với lời nhắn gửi sao anh không về thăm lại thôn Vĩ. Nhưng đó cũng chính là lời tự hỏi của Hàn Mặc Tử đang tự phân thân để hỏi chính mình. Cả hai cách hiểu đều cho người đọc cảm nhận được nỗi nhớ quê cũng như khao khát được trở về thôn Vĩ của nhà thơ.

Bức tranh thiên nhiên được khắc họa qua những hình ảnh giản dị. Đó là khu vườn thôn Vĩ với “nắng hàng cau”. Điệp ngữ vòng “nhìn nắng” – “nắng mới” thể hiện một không gian tràn đầy sức sống. Thứ ánh sáng của ngày mới đầy tinh khôi, ấm áp mang đến cho con người một luồng sinh khí mới. Khu vườn ấy không chỉ có màu vàng của ánh nắng mà còn có màu xanh của cây cối “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. “Ai” là đại từ phiếm chỉ, nhà thơ không biết khu vườn kia là của ai. Từ “mướt” gợi cảm giác về một màu xanh của sự sống, lấp lánh khắp khu vườn. Trong không gian thiên nhiên ấy, con người thấp thoáng hiện ra: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Hình ảnh trên lại gợi cho người đọc hai cách hiểu. Khuôn mặt chữ điền của người thôn Vĩ thấp thoáng sau tán trúc. Khuôn mặt chữ điền gợi ra vẻ hiền lành phúc hậu, phải chăng đó là khuôn mặt của người con gái Hàn Mặc Tử thầm thương? Hay cũng có thể đó là khung cửa sổ hình chữ điền thấp thoáng sau lá trúc. Như vậy, người đọc có thể cảm nhận được tình cảm sâu sắc của nhà thơ dành cho thôn Vĩ.

Đến khổ thơ tiếp theo, Hàn Mặc Tử đã khắc họa bức tranh sông nước đêm trăng hoàn toàn đối lập với thiên nhiên thôn Vĩ Dạ:

“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”

Nếu trong tự nhiên, gió và mây vốn sóng đôi cùng nhau. Thì trong thơ Hàn Mặc Tử, gió và mây lại gợi sự chia lìa, xa cách: “gió theo lối gió, mây đường mây”. Ta tự hỏi đó là sự chia ly của thiên nhiên hay của chính con người? Và đến cả dòng nước – một sự vật vô tri, vô giác nhưng qua cái nhìn của nhà thơ giờ đây cũng có cảm xúc. Dòng nước “buồn thiu” – biện pháp tu từ nhân hóa khiến con sông giống như một con người, có tâm trạng. Cuối cùng là hình ảnh “hoa bắp lay” – bông hoa bắp nhỏ bé trôi theo dòng nước cũng giống như cuộc đời lưu lạc trôi nổi của con người.

Bức tranh thiên nhiên xuất hiện trong đêm trăng:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

“Trăng” đã trở thành một biểu tượng quen thuộc của thi ca. Nếu trong thơ Lí Bạch, ánh trăng gợi nhớ về quê hương:

“Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương”

Hay trăng trong thơ của Bác Hồ đã thể hiện được tình yêu thiên nhiên cũng như tâm hồn thư thái, lạc quan của Bác dù trong hoàn cảnh ngục tù.

“Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”

Thì trong “Đây thôn Vĩ Dạ” lại là “sông trăng” – gợi ra hình ảnh ánh trăng vàng in bóng xuống mặt nước. Ánh trăng lan tỏa ra khắp dòng sông tạo nên một dòng sông trăng. Kết thúc khổ thơ là câu hỏi tu từ “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Từ “kịp” được tác giả sử dụng nhằm thể hiện tâm trạng lo âu. Bởi với một người bình thường, nếu không kịp trở về vào “tối nay” thì sẽ còn những đêm khác, Còn với Hàn Mặc Tử, thì đêm nào cũng có thể là đêm cuối cùng.

Cuối cùng, nhà thơ đã khắc họa tâm trạng của nhân vật trữ tình:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Giữa không gian mơ hồ giữa “ảo và mộng” của “cảnh và người”. Khung cảnh vận động từ thực đến ảo, từ khu vườn thôn Vĩ Dạ đến sông trăng và cuối cùng chìm vào tâm thức mờ ảo của sương khói. Điệp ngữ “khách đường xa” như một tiếng gọi tha thiết, Hàn Mặc Tử nhớ về quê hương để rồi phải mặc cảm trong sự chia cách. Câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” là lời nhân vật trữ tình vừa là để hỏi người và vừa để hỏi mình, nửa gần gũi nửa xa xăm, nửa hoài nghi nửa như giận hờn, trách móc. Khi dùng đại từ phiếm chỉ “ai” làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng của một tâm hồn khát khao được sống, được yêu. Câu thơ làm nhòe mờ hình tượng của khách thể và chủ thể trữ tình, tạo nên một nỗi ám ảnh về nỗi đau trong cõi mênh mông vô tận, tâm trạng hụt hẫng và đầy tuyệt vọng của nhà thơ.

Như vậy, bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” đã cho người đọc cảm nhận về một bức tranh thiên nhiên đẹp về một miền quê đất nước, là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người.


Phân tích bài thơ – Đây thôn vĩ dạ của Hàn Mặc Tử – Ngữ văn 11 – Phạm Minh Nhật


Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Giáo Dục

Related Articles

Check Also
Close
Back to top button